Chúa Nhật 22/11/2020 – Chúa Nhật 34 Thường Niên năm A. ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ. – Vua Giêsu-vua tình yêu.

Chúa Nhật 22/11/2020 – Chúa Nhật 34 Thường Niên năm A. ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ. – Vua Giêsu-vua tình yêu.

"Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người, và sẽ phân chia họ ra".

 

Lời Chúa: Mt 25, 31-46

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái.

"Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: "Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta".

"Khi ấy người lành đáp lại rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?" Vua đáp lại: "Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta".

"Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: "Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!"

"Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: "Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?" Khi ấy Người đáp lại: "Ta bảo thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta". Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu".

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN – A 2020

Lời Chúa: Ed. 34, 11-12.15-17; 1Cr. 15, 20-26.28; Mt. 25, 31-46

 

1. Vì xưa Ta đói.

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Têrêsa Calcutta là người mê và sống đoạn Tin Mừng này.

Bà bị cuốn hút bởi những người đau khổ.

Dưới mắt bà, đó không chỉ là những người đáng thương,

mà còn là hiện thân của chính Chúa Giêsu đau khổ.

Tình yêu con người và tình yêu Chúa Giêsu quyện vào nhau.

Vì yêu Ngài, nên bà yêu con người mãnh liệt hơn.

"Tập nhìn ra chính Chúa Giêsu trong mỗi con người,

dù họ có vẻ đáng kinh tởm đến đâu đi nữa."

Đoạn Tin Mừng này được chọn đọc vào Chúa Nhật hôm nay,

vì ở đây Chúa Giêsu được mô tả như một vị Vua,

có thiên sứ theo hầu, ngồi trên ngai vinh hiển.

Ngài là Thẩm phán xét xử muôn dân,

tách biệt kẻ lành người dữ, thưởng phạt công minh.

Nhưng phán quyết của Ngài làm ai nấy kinh ngạc.

Người ta được chúc phúc hay bị nguyền rủa

dựa trên những việc họ đã làm hay không làm cho Ngài,

mà họ không hề hay biết.

Vua Giêsu chẳng ở đâu xa, chẳng ở cung vàng điện ngọc.

Ngài ở trong những người cùng khốn.

Vua Giêsu đồng hoá mình

với những người đói khát, khách lạ, trần trụi, đau yếu hay ở tù

mà chúng ta vẫn gặp mỗi ngày.

Ngài ẩn mình hay đúng hơn Ngài tỏ mình qua con người,

qua những người hèn kém đáng thương nhất.

Chúa vinh quang không ngại nhận họ là anh em.

Ngài không khoác tấm áo lộng lẫy kiêu sa

để dễ gần gũi với nỗi đau của người yếu thế.

Như thế chúng ta không phải tìm Chúa ở nơi xa xôi.

Ngài không chỉ ở trong nhà thờ, trong bí tích.

Ngài còn ở nơi những người đang cần chúng ta.

Mỗi người khốn cùng đều là một bí tích,

nơi chúng ta có thể thực sự gặp gỡ Chúa Giêsu.

Có những lần Chúa đi ngang qua đời ta

như vị vua giả trang làm người hành khất.

Ngày phán xét, chúng ta không được giả vờ ngạc nhiên

khi nghe biết mình đã để Ngài đi qua tay trắng.

"Chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên tình yêu."

Tội lớn nhất là tội thiếu sót: không làm điều phải làm.

Hôm nay Vua Giêsu vẫn ngửa tay

xin ta giúp các anh em bé mọn nhất của Ngài.

Những người mù chữ, những trẻ em đường phố,

những người bị suy sụp tinh thần, cần được yêu thương,

những người không tìm được cho đời mình một chỗ trọ,

những người tự nhốt mình trong tù ngục đam mê,

những người trần trụi vì phải sống nhờ thân xác.

Phải làm một việc gì đó cụ thể

để Nước Chúa lớn lên trong thế giới này.

Phải xây dựng một điều tốt đẹp nào đó

để Vua Giêsu thật sự là Vua Vũ Trụ,

vũ trụ bên ngoài và vũ trụ trong lòng con người.

Gợi Ý Chia Sẻ

Thế giới hôm nay còn nhiều bất công và đau khổ do con người gây ra cho nhau. Bạn thử nghĩ, với khả năng của mình, bạn làm được điều gì để người chung quanh hạnh phúc?

Thấy Chúa Giêsu nơi những người đói nghèo, rách rưới, vô gia cư nghề nghiệp, thậm chí đã có lần phạm pháp, bạn nghĩ điều đó có khó không? Làm sao tôi có thể đối xử với họ như với Chúa?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, Vua vũ trụ,

nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục,

nếu Chúa là vua của hơn tám trăn ngàn nữ tu,

nếu Chúa là vua của một tỉ người công giáo,

thì thế giới này sẽ đổi khác, Hội Thánh sẽ đổi khác.

Chúng con không phải là một lượng men nhỏ.

Nếu khối bột chẳng được dậy lên,

thì là vì men đã mất phẩm chất.

Chúng con phải chịu trách nhiệm về sự dữ trên địa cầu:

có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra.

Chúng con chỉ kêu cầu cho Nước Chúa mau đến,

nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần gian.

Lạy Chúa Giêsu Vua vũ trụ,

chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa,

giữ chặt Chúa ở trong nhà thờ, nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa,

dù Chúa đã đến trái đất này từ hơn 2000 năm.

Chúng con sợ Chúa đến làm phiền lòng chúng con,

và không cho chúng con được yên ổn.

Ước gì một tỉ người công giáo chịu để Chúa chi phối đởi mình

và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa hề đến.

Như thế vũ trụ này trở thành vũ trụ của Thiên Chúa.

 

2. Vua tình yêu - Huệ Minh

Kính thưa Cộng Đoàn,

Chúng ta đã sống qua cái thời quân chủ rồi, không ai còn thấy cái hình ảnh nhà vua nữa! Có chăng thì thấy nhà vua qua phim ảnh, qua sách báo thôi. Nhưng mà đúng là làm vua kinh khủng quá!

Người ta nói rằng làm quan thì cả họ được nhờ, còn làm vua thì không biết làm sao nữa! Làm vua thì có quyền ghê lắm!

Và chúng ta thấy nhà vua thì dân chúng không ai được gặp mặt, không ai được nhìn thấy mặt. Chúng ta xem phim mà mỗi lần mà ta thấy, nhà vua đi vi hành thì thôi chứ. Người ta nói rằng: “Hoàng thượng giá lâm” là coi như xong rồi đó! Người ta phải rạp mặt xuống dưới đất, người ta không dám nhìn lên, chẳng may mà người nào liều mạng mà nhìn vua, thì coi như bị chu di tam tộc.

Quyền lực của ông vua ghê lắm, trong một đất nước mà đứng đầu mà! quân chủ, coi như ông vua cầm quyền sinh tử dân của mình.

Ông ta có quyền “năm thê bảy thiếp”, ông ta đủ thứ quyền trong tay ông ta cả: - Ông ta muốn người này sống, là người này sống. Ông ta muốn người kia chết, là người kia chết. Ra cái quyền lực của ông vua nó cay nghiệt, và đó là hình ảnh của vị vua trần gian.

Ngày hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta mừng, không phải mừng Vua của trần gian mà là Vua của Vũ trụ. Vị Vua này mang tên là Giêsu.

Vương quốc của Ngài vượt ra khỏi cái trần gian này, qua khỏi cái không gian và thời gian, bởi vì Ngài hằng có và Ngài đời đời! Vương quốc của Vua Giêsu là như thế!

Và cái câu chuyện Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy rất là vui! Có một nhà chú giải cho cái câu chuyện này là: “dụ ngôn về những nỗi ngạc nhiên”.

Chứ mà tiêu chuẩn người ta đánh giá là quần thần của nhà vua là những người phải làm lợi cho nhà vua, những người mang lại những điều lợi lộc cho nhà vua.

Thế nhưng mà, đặc biệt về vị Vua Giêsu ở đây, chúng ta thấy tiêu chuẩn mà đánh giá về “quần thần của Ngài, hay là những người trong Vương Quốc” của Ngài là gì?

“Là những gì mà ngươi làm cho chính anh em đồng loại, và đặc biệt làm cho những người bé mọn.”

Và Chúng ta không thấy một vị vua nào như Vua Giêsu:

Đã từ trời cao xuống, đã xuống đồng hoá với con người; đã sống với con người, ngoại trừ tội lỗi.

Chỉ vì tình yêu và với tình yêu, Vua Giêsu đã đến trong cuộc đời này và Ngài ôm chầm tất cả con người tội lỗi, con người nghèo, những con người bệnh tật.

Ngài đến không phải để tìm hạnh phúc cho gia đình mình, cho bản thân mình, cho triều đại của mình. Nhưng ngài đã tìm hạnh phúc, đã mang lại hạnh phúc cho những con người nghèo, những con người đau khổ.

Tiêu chuẩn đánh giá của Vua Kitô là như thế đó!

Và điều ngỡ ngàn thứ hai là trong vương quốc của Ngài, không phải là vương quốc bị giới hạn bởi bởi vật chất, bởi biên giới, của địa lý.

Và đặc biệt rằng triều đại của Ngài không phải như triều đại của các vua trần gian.

Các vua trần gian thì có triều đại, có vương quốc, có vương quyền đó! Nhưng mà đến lúc nào đó nằm xuống xuôi tay, tất cả đều để lại con số 0.

Còn Vua Giêsu là Vua vĩnh viễn, và Vua mãi mãi, Vua muôn đời. Và điều mà Vua hỏi mỗi người chúng ta rằng:

- Ngày xưa Ta đói, các ngươi có cho ăn hay không?

Và những người đạo đức thì nói ngay:

- Lạy Chúa, có bao giờ con thấy Chúa đói đâu, mà cho ăn! Thấy Chúa khát đâu, mà cho uống! Có bao giờ con thấy Chúa tù đày đâu, mà đi thăm! Có bao giờ con thấy Chúa trần truồng đâu, mà cho Chúa mặc!

Biên giới của Vua Giêsu đó là biên giới của tình yêu, ta khám phá ra khuôn mặt của CHÚA Giêsu Kitô làm vua.

Và ta nhìn lại cuộc đời của mỗi người Kitô hữu là những người sống trong Vương Quốc của Chúa Giêsu đó. Nó cũng có một cái gì đó nó phảng phất hình ảnh của vị vua.

Ngày xưa, khi mà chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội, chúng ta được mặc áo trắng, trao nến sáng, được Xức dầu. Và khi trở thành người Kitô Hữu, chúng ta được chia sẻ chức năng làm tư tế, làm tiên tri, làm vương đế, làm vua. Và mọi người đều được làm vua: làm vua của tình yêu, vua của vị tha.

Và mỗi người chúng ta được mời gọi, chúng ta họa lại hình ảnh của vua trong cuộc đời của mỗi người chúng ta, trong khuôn mặt của chúng ta, trong cung cách sống của chúng ta.

Linh mục phải sống trong cái chức năng là người phục vụ, phục vụ cộng đoàn, phục vụ con chiên, phục vụ những người tín hữu mà Chúa trao phó.

Còn anh chị em trong đời sống hôn nhân gia đình. Anh chị em được mời gọi phục vụ chính gia đình của mình.

Và khi đặt vấn đề này mọi người nói:

À chuyện nhỏ, gia đình con thì đâu có gì vất vả, đâu có gì khó khăn đâu? Con vẫn lo cho vợ con, cho gia đình con đó chứ!

Nhưng mà ngày hôm nay, một cái thực tế đau lòng: Chúng ta nhìn lại nhiều gia đình đổ vỡ. Dẫu rằng giàu có lắm!

Có một cái câu chuyện: Thằng bé nó hỏi: Bố ơi bố, bố đi làm một tiếng được bao nhiêu tiền?

Bố mới nói rằng là bố đi làm một tiếng được 100.000 đ.

Cái thằng bé nó mới đưa ra 50.000đ.

Bố ơi con để dành được 50.000 đ. Bố cho con nữa giờ bố ở cạnh con.

Khi đó người bố mới sáng mắt ra rằng: Chỉ vì ham đi kiếm tiền thôi! Cắm đầu, cắm cổ mà không có thời gian dành cho gia đình đặc biệt dành cho con của mình! nên đứa trẻ nó phải nói lên như vậy.

Ngày hôm nay nhiều gia đình đổ vỡ. Bởi vì người ta không còn quan tâm đến nhau nữa! Người ta không còn yêu thương nhau nữa!

Những lời hứa hẹn ngày đám cưới, những lời hứa hẹn khi người ta tỏ tình đó đã trở thành mây khói rồi!

Người ta không cần lo lắng cho nhau người ta không còn tìm nhau nữa! Và người ta không còn tôn trọng cha mẹ người ta! người ta không có tôn trọng cái Bữa Cơm Gia Đình.

Có những người chỉ biết đi kiếm tiền về quăng cho con cái và con cái sử dụng những đồng tiền đó một cách vô tội: Cờ bạc, rượu chè, trai gái. Và khi chợt giật mình ra thì thấy rằng gia đình mình đã đổ vỡ rồi.

Và rồi, học để làm gì? Bố mẹ quăng tiền là đi mua được bằng Cấp! Học để làm gì? Ra trường vẫn thất nghiệp.

Và trong một cái xã hội giằng co như thế! Chúng ta lại là những người Kitô Hữu chúng ta được mời gọi sống lo lắng cho gia đình chúng ta. Chúng ta lo lắng cho những người con của chúng ta.

Ngày hôm nay, báo chí phản ánh một cái phần nào xã hội. Khi chúng ta nhìn thấy nhiều gia đình có tiền người ta tưởng rằng, người ta đi tìm tiền và người ta giao cho con người ta thế là người ta xong bổn phận. Nhưng đáng tiếc thay, khi có tiền rồi, thì quay lại: nhà tan, cửa nát.

Và khi chúng ta nhìn lại điều đó và chúng ta duyệt lại cái đời sống Kitô hữu của chúng ta. Chúng ta sống cái chức năng vua trong gia đình của chúng ta không đơn giản.

Đặc biệt Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2, Ngài chọn đúng cái bài Tin Mừng ngày hôm nay để mà mời gọi người ta, sống cái đời sống gia đình. Ngài lấy cái dụ ngôn ngày hôm nay, để ngài chất vấn về đời sống gia đình.

Khi mà ngày Cánh Chung, Chúa sẽ hỏi chúng ta rằng:

- Ngày xưa, là một người vợ: Ta không còn nhan sắc nữa ngươi có còn yêu thương Ta hay không?

- Ngày xưa, Ta là một thai nhi trong dạ mẹ, ngươi cố gắng giữ lại dù khi mà cuộc sống của ngươi lầm than!

- Ngày xưa, Ta vất vả trong gia đình, mà ngươi có cố gắng thương yêu ta hay không?

Đó là điều quan trọng mà Chúa mời gọi, Chúa hỏi chúng ta. Chứ Chúa không hỏi chúng ta là:

Xây bao nhiêu cái nhà lầu? Xây bao nhiêu cái biệt thự? Làm được cái điều này điều kia?

Học được bao nhiêu cái bằng cấp? Đỗ đạt trường này, trường kia. Làm ông này, bà nọ.

Chúa không hỏi chúng ta đâu!

Chúa hỏi chúng ta là lòng mến, lòng yêu thương, lòng bác ái và sự phục vụ và nhất là phục vụ những người nghèo.

Và những người nghèo đó ở đâu?

Ở ngay trong chính gia đình chúng ta. Nơi những người thân của chúng ta. Nơi người mẹ già đang lớn tuổi, cho ăn rồi mà bảo chưa được ăn. Ở nơi người bố già tính lẩm cà, lẩm cẩm một tí xíu bởi vì quên trước quên sau. Nơi những cái con người khuyết tật, nơi những con người kém may mắn hơn chúng ta, ngay trong gia đình chúng ta.

Nhiều khi chúng ta lo đi đâu đâu làm việc bác ái ở đâu đâu đó! mà ngay trong gia đình chúng ta những người nghèo đầy đó! Nhưng mà chúng ta không quan tâm, chúng ta không để ý! Và chúng ta chết, chúng ta sẽ được Chúa chất vấn!

Chúng ta được ở bên trái, hoặc ở bên phải đó là cách trả lời, cách sống của mỗi người chúng ta: “ Khi xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống, Ta mình trần, các ngươi cho mặc hay không?

Vị Vua Giêsu là Vua Tình Yêu không tìm gì cho chính mình cả, mà mang lợi ích cho người khác, hy sinh chính mình, mạng sống mình, hy sinh cả cuộc đời của mình. Để mang niềm vui, mang sự sống cho người khác.

Chúng ta là những người mang tên Giêsu, mang tên người Kitô hữu trong cuộc đời chúng ta, nhưng liệu rằng chúng ta có sống giống như Giêsu đã sống! Chúng ta có sống đúng với con đường yêu thương, phục vụ mà Giêsu đã sống hay không.

Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta, để dẫu rằng cuộc đời chúng ta vẫn còn đó những thăng trầm, những vất vả, những yếu đuối.

Xin Chúa thêm ơn để chúng ta nhìn lên Chúa Giêsu, một vị Vua Tình Yêu. Để chúng ta: ngày mỗi ngày, chấm mỗi chấm cái tình yêu đó.

Để khi chúng ta nhắm mắt lìa đời, chúng ta có một chỗ trong lòng của vương quốc Tình Yêu mang tên Giêsu. Và nơi đó chúng ta sẽ gặp lại anh chị em đồng loại chúng ta. Amen.

 

3. Chúa Giêsu, Vua Tình Yêu

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Tuần lễ cấp cao APEC 2017 diễn ra tại Đà Nẵng từ ngày 6 đến 11/11/2017, có các nhà lãnh đạo cấp cao của 21 nền kinh tế thành viên, trong đó có tổng thống Mỹ, Nga, chủ tịch Trung Quốc… và các quan chức khác trong và ngoài nước đến tham dự. Vì thế, để đảm bảo an ninh cho sự kiện quan trọng này, hơn 500 lính cứu hỏa, 800 cảnh sát giao thông và 1.500 cảnh sát cơ động, đặc nhiệm làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh tại Đà Nẵng. Học sinh, sinh viên nhiều trường ở Đà Nẵng cũng được nghỉ hai ngày 10 và 11/11 nhằm đảm bảo an ninh cho các nguyên thủ quốc gia đến. Ngoài ra, khi các nguyên thủ các nước đến, họ đem theo rất nhiều kẻ hầu người hạ, lính đặc nhiệm, lính mật vụ, chó nghiệp vụ, chuyên cơ, các loại vũ khí tối tân, các siêu xe dàn “khủng”, hạng siêu sang với những chức năng đặc biệt, chống đạn, chốn vũ khí sinh học, chống ám sát... hầu bảo vệ tuyết đối an toàn cho “các vua, chúa” trần gian của họ.

Hôm nay, Tuần lễ cuối cùng của Năm Phụng vụ, cùng với Giáo Hội Mẹ, chúng ta mừng kính trọng thể Lễ Chúa Kitô là Vua vũ trụ. Nhưng các Bài Lời Chúa mô tả vị Vua Giêsu mà chúng ta tôn thờ không phải như các vị vua, chúa, Tổng thống, chủ tịch một nước có nhiều lính tráng, vũ khí tối tân, các phương tiện chống đạn hiện đại hay sang trọng bậc nhất nhằm phục vụ và bảo vệ an toàn cho Vua Giêsu, nhưng quanh Ngài chỉ là các Tông đồ chài lưới và dân nghèo. Ngài đơn sơ, hiền lành, yêu thương phục vụ và sẵn sàng hiến mạng đề cứu độ tất cả mọi thần dân của Ngài. Cho nên, Ngài cai quản, chăm sóc và gìn giữ thần dân của mình không bằng binh hùng, tướng mạnh, không bằng vũ lực hay bạo lực mà bằng một Trái Tim Nhân Ái, bằng sự hiến thân, phục vụ và cho đi. Thần dân của Vua Giêsu Kitô bao gồm tất cả nhân loại, không phân biệt tuổi tác, giới tính, ngôn ngữ, màu da, chủng tộc. Vương Quốc của Ngài không biên giới. Tình Yêu của Vua Giêsu dành cho thần dân qua việc Ngài hiến giá máu của Ngài để nên của lễ đền tội, Ngài hiến chính thịt máu của Ngài làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn và thân xác chúng ta mọi ngày và mọi thời. Vì vậy, đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, của lịch sử nhân loại và Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta. Vì chưng, chỉ có Chúa Giêsu là Đấng trung gian duy nhất giao hòa giữa trời với đất. Ngài đã nhập thể để rao truyền Tin Mừng cứu độ và là Đấng cứu độ duy nhất. Ngài mở lối dẫn chúng ta vào hưởng niềm vui hạnh phúc trong Nước Chúa.

Thử hỏi Nước Chúa là nước nào, ở đâu? Thưa, Sách Tin Mừng kể rằng khi Đức Giêsu bị điệu ra trước tổng trấn Phi-la-tô, Ông Phi-la-tô hỏi Người: "Ông có phải là vua dân Do-thái không?" Ông đã làm gì?" Đức Giê-su trả lời: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi" (Ga 18,33.36). Chúa Giêsu nói Nước Chúa không thuộc về thế gian, có nghĩa là bất cứ nước nào, bất cứ chế độ nào, với nền văn minh nào, cũng không thể đồng hóa với Nước Chúa. Nước Chúa ở trong các tâm hồn, những tâm hồn khao khát sự thật, tôn trọng sự thật, và nhất là đón nhận sự thật. Sự thật đó là tình yêu cứu độ Chúa Giêsu. Cho nên, muốn lãnh nhận ơn cứu độ, chúng ta phải ở trong Chúa và dõi theo đường lối của Ngài. Đường lối của Chúa là đường lối yêu thương phục vụ mọi người. Cụ thể, Lời Chúa trong bài đọc 1, Ngôn sứ Êdêkien nói ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng sẽ chăm sóc chiên của Chúa. Chúa sẽ kéo chúng khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt. Con nào bị mất, Chúa sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Chúa sẽ đưa về; con nào bị thương, Chúa sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Chúa sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Chúa sẽ canh chừng. Thế rồi, khi Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, là Vua Giêsu, Ngài đã chăm sóc thần dân của Ngài như Chúa Cha bằng việc sinh ra ngoài đồng, ăn đon đả, ở ngoài đường và chết ngoài đồi vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta. Qủa thế, Vua Giêsu đến trần gian, Ngài không ở trong cung điện hay toà nhà nguy nga lộng lẫy có kể hầu người hạ, có các phương tiện tối tân bảo vệ, nhưng Ngài sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo, Ngài đến với dân chúng để rao giảng Tin Mừng cứu độ, Ngài đến với người nghèo khổ để an ủi họ, cho kẻ đói ăn, chữa lành các bệnh tật, đến với những người tội lỗi kêu gọi họ ăn năn, chăm sóc cô nhi quả phụ, tha tội cho tội nhân, cho kẻ chết sống lại và chính Ngài chịu nạn chịu chết và sống lại để cho muôn người được sống và sống dồi dào. Cho nên, Chúa Giêsu trong Tin Mừng, Ngài khẳng định rằng con đường yêu thương là con đường tuyệt hảo dẫn vào Nước Trời. Chiên và dê, thiên đàng và hỏa ngục là hình ảnh tượng trưng người tốt kẻ xấu. Và tiêu chí duy nhất để Chúa phán xét và thưởng phạt đó là những việc làm bác ái với tha nhân, nhất là những người nghèo của Chúa. Cho nên, trong bài giảng thánh lễ Ngày quốc tế người nghèo lần thứ nhất, cử hành này Chúa Nhật 19-21 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định: “Trước con mắt trần gian người nghèo ít có giá trị, nhưng họ lại là những người mở ra cho chúng ta con đường về trời, họ là thông hành vào thiên đàng của chúng ta…. Thiên Chúa ban cho chúng ta các nén bạc, các khả năng, cần phải tận dụng và phát triển để mứu ích cho tha nhân, nhất là cho người nghèo… Yêu thương người nghèo như thế có nghĩa là chiến đấu chống lại mọi thứ nghèo đói tinh thần cũng như vật chất”.

Mừng lễ Chúa Ki-tô Vua hôm nay, trước tiên chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa đã mời gọi và cho ta trở thành thần dân của Vua Giêsu Kitô, chúng ta cũng cảm tạ Thiên Chúa đã tuôn đổ muôn phúc lành xuống trên chúng ta, trên gia đình, cộng đoàn và Giáo Hội trong suốt một năm phụng vụ; đồng thời, chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì những thiếu xót trong bổn phận của một công dân trong Vương Quốc của Ngài; đặc biệt là những bổn phận của mình đối với gia đình, đối với giáo xứ, Giáo hội và xã hội bằng những việc hy sinh bác ái, bằng những đóng góp tài năng –công sức của mình. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết sống xứng đáng là thần dân của Chúa như lòng Chúa ước mong bằng việc nỗ lực từng ngày để nên trọn lành nhờ làm theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong Đức Kitô bằng việc: yêu thương thay cho ghen ghét, tha thứ thay cho hận thù, hy sinh thay cho ích kỷ, hiệp nhất thay cho chia rẽ…Đồng thời hãy luôn biết rộng mở trái tim và đôi tay yêu thương nhân ái bằng việc đến thăm viếng, an ủi, sẻ chia tinh thần cũng như vật chất để đỡ nâng những người nghèo khổ đang ở bên ta ngõ hầu trong ngày sau hết, Vua Giêsu cũng sẽ nói với chúng ta rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han". Với niềm tin ấy, chúng ta cùng nhau tuyên xưng Đức Tin.

 

4. Đức Yêsu Kitô là vua

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.)

Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội mừng lễ Chúa Kitô là Vua. Ước gì mỗi người hãy để Đức Yêsu là vua nơi lòng mình.

1. Đức Yêsu là Vua

Vua là từ ngữ chỉ người đứng đầu một nước. Vua có quyền trên tất cả, lệnh của vua là luật cho thần dân. Vua là người có quyền sinh sát, có quyền để sống hay giết chết: “vua xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Dân Do Thái có Saul là vị vua đầu tiên, sau đó tới David rồi Salômôn. Việt Nam có Đinh Bộ Lĩnh làm vua đầu tiên lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng; vị vua cuối cùng của Việt Nam là Bảo Đại.

Đức Yêsu là vua. Dân Do Thái và những người lãnh đạo tôn giáo thời đó đã tố cáo Đức Yêsu như người muốn làm vua, nghĩa là, muốn nổi lên chống đối chế độ thống trị Roma lúc đó. Philatô đã hỏi Đức Yêsu: “nhà ngươi mà là vua dân Do Thái à?” Đức Yêsu chấp nhận Ngài là vua, nhưng không phải là vua ở trần thế này. Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy Đức Yêsu xuất hiện trên mây trời như vị vua ngồi trên ngai xét xử.

Đức Yêsu là Đấng rất đặc biệt, Ngài là người hoàn toàn như chúng ta, nhưng không chỉ là người. Ngài được Thiên Chúa ban cho toàn quyền trên trời dưới đất (Mt.28, 18). Ngài là Đấng vượt trên tất cả. Hôm nay, Giáo Hội dùng từ ngữ Đức Yêsu Kitô là Vua để mừng Ngài, và còn dùng nhiều từ ngữ khác để diễn tả con người đặc biệt của Ngài, chẳng hạn như Đấng chăn chiên lành, Chiên Thiên Chúa, Lời Thiên Chúa nhập thể. Tất cả những từ ngữ trên chỉ có thể diễn tả phần nào “bản chất” của Đức Yêsu.

2. Đức Yêsu còn hơn một vị vua

Đức Yêsu là một người như tất cả mọi người. Những người làng Nadaret nhận biết điều này hơn ai hết. Họ đã muốn xô Đức Yêsu xuống vực khi Ngài về Nadaret rao giảng trong tư thế của một tiên tri (Lc.4, 28-30). Tuy nhiên, Đức Yêsu không chỉ là một người. Nơi Ngài còn có điều gì hơn nữa. Các tông đồ là những người được diễm phúc theo Ngài suốt ba năm trời đã nhận ra điều đó: Ngài làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, đi trên mặt hồ, truyền sóng biển hồ yên lặng, cho kẻ mù được sáng mắt, kẻ què đi được. Không chỉ thế, Ngài còn nói những lời “rất khó nghe” với cái nhìn của người Do Thái, đặc biệt là những người có học: Ngài nói như thể Ngài ngang hàng với Thiên Chúa.

Ngài nói như thể Ngài với Thiên Chúa là một (Ga.10, 30); Ngài nói như thể Ngài có quyền tha tội mà theo quan điểm của người Do Thái: chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội (Mc.2, 7); Ngài nói như thể Ngài có trước Abraham, ông tổ của người Do Thái (Ga.8, 58). Cách hành xử của Đức Yêsu rất khác người, và như vậy chúng ta hiểu tại sao những người lãnh đạo và trí thức hồi đó không chỉ không ưa Đức Yêsu mà còn muốn giết Đức Yêsu nữa.

Sau khi Đức Yêsu sống lại, các tông đồ hiểu hơn người thầy mà họ yêu quý. Đức Yêsu luôn được hiểu là một Đấng “khác” với Thiên Chúa, nhưng Ngài liên kết với Thiên Chúa cách rất đặc biệt. Ngài nhận ý Thiên Chúa là ý và lương thực của Ngài (Mc.14, 36; Ga.4, 34). Ngài là một với Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao những nhà thần học sau đó đã dùng từ ngữ ngôi hai nhập thể để nói về bản thể của Đức Yêsu. Từ ngữ “ngôi hai nhập thể” cũng là từ ngữ để diễn tả thực tại khôn lường “Đức Yêsu”. Thiên Chúa là Đấng duy nhất; và Đức Yêsu là Đấng liên kết đặc biệt với Thiên Chúa đến độ có thể nói: Ngài là Thiên Chúa. Tuy vậy, Ngài “khác” với Thiên Chúa là Cha.

3. Hãy để Đức Yêsu là Vua

Đức Yêsu là Đấng diễn tả tuyệt vời về Thiên Chúa, đến độ các nhà thần học diễn tả Ngài là Lời của Thiên Chúa Tình Yêu. Đức Yêsu yêu thương và dạy dỗ con người. Con người, cuộc đời của Ngài là bài học, là lời dạy. Cách sống của Ngài là đường dẫn con người đến với Thiên Chúa. Ngài dạy con người sống yêu thương như Ngài: hiến mạng cho người mình yêu. Ngài chấp nhận chết trên thập giá vì yêu; bí tích Thánh Thể là biểu trưng trước đó.

Qua Đức Yêsu, đặc biệt qua cái chết thê thảm trên thập giá của Ngài, con người nhận biết Thiên Chúa yêu con người vô cùng, như thể còn hơn cả Đức Yêsu. Thiên Chúa yêu con người. Đức Yêsu yêu con người. Như vậy, những ai thuộc về Thiên Chúa cũng phải sống yêu thương. Tiêu chuẩn phán xét của vị vua vào ngày cánh chung, không phải là người đó có được rửa tội hay không, không phải người đó là linh mục hay giáo dân, không phải người đó có nói giỏi về Thiên Chúa không, mà là có yêu thương tha nhân hay không.

Chính khi con người yêu thương tha nhân, đặc biệt những người nghèo, là yêu thương Thiên Chúa, là biết Thiên Chúa. Cái biết được thể hiện bằng cuộc sống, chứ không bằng lời nói. “Ai yêu thương là biết Thiên Chúa, ai không yêu thương là không biết Thiên Chúa” (1Ga.4, 7-8). “Không phải những kẻ nói lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời, mà là những kẻ làm theo ý Thiên Chúa” (Mt.7, 21-23). “Dù xây chín đợt phù đồ, không bằng làm phúc giúp cho một người”. Ai sống yêu thương, là đang để Đức Yêsu làm vua nơi lòng mình, là chấp nhận luật yêu thương trong vương quốc của Ngài. Nếu mình cố gắng sống yêu thương, thì gia đình sẽ an vui hạnh phúc hơn, những người sống và làm việc bên mình sẽ bình an hơn, cuộc đời mình sẽ tươi đẹp hơn. Hãy để Đức Yêsu làm vua nơi lòng mình.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Đức Yêsu là ai đối với bạn?

2. Cuối năm người ta tính sổ đời. Bạn có định tính sổ với Chúa dịp cuối năm phụng vụ này không? Đâu là tiêu chuẩn để bạn tính sổ với Thiên Chúa?

3. Tha nhân, là ai đối với bạn? Bạn có cách nào để làm cuộc đời đẹp hơn không?

 

5. Kitô Vua

Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta nhận thấy Đức Kitô chính là vị Vua sẽ đến để xét xử chúng ta. Đồng thời số phận đời đời của chúng ta hoàn toàn tuỳ thuộc vào thái độ cư xử đối với những kẻ hèn mọn, đói khát, đau yếu và tù tội: Hỡi những người đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh nhận phần thưởng đã được sắm sẵn cho các ngươi từ thuở đời đời. Hơn thế nữa, Ngài đã đồng hoá mình với những kẻ bất hạnh ấy, bởi vì mỗi khi chúng ta thực hiện một hành động bác ái giúp đỡ họ là chúng ta đã làm cho chính Chúa vậy.

Mặc dù là một vị Vua nhân từ đầy lòng thương xót, nhưng Ngài cũng đã lên án phạt những kẻ ích kỷ chỉ biết nghĩ đến mình mà thôi, dầu họ chẳng bao giờ cướp của giết người. Bởi vì khinh dể những kẻ hèn mọn là khinh dể chính Chúa. Quên lãng những kẻ hèn mọn là quên lãng chính Chúa. Đức Kitô Vua, hằng ngày vẫn đi trước mặt chúng ta, hằng ngày vẫn sống giữa chúng ta nơi những anh em nghèo túng và khổ đau.

Thật là bất hạnh nếu như chúng ta đã không nhận ra Ngài, cũng như đã không giúp đỡ Ngài. Bởi vì trong ngày sau hết chúng ta sẽ bị Chúa chúc dữ: Hỡi những kẻ bị nguyền rủa, hãy đi cho khuất mặt Ta, để vào lửa đời đời đã được sắm sẵn cho ma quỷ, vì khi Ta đói các ngươi đã không cho ăn. Khi Ta khát các ngươi đã không cho uống, khi Ta trần trụi, các ngươi đã không cho mặc, khi Ta đau yếu và bị cầm tù, các ngươi đã không thăm viếng. Liệu lúc bấy giờ chúng ta có thể khiếu nại rằng chúng ta chẳng hề hay biết?

Chính vì thế, chúng ta đừng đóng chặt cửa con tim và cõi lòng của chúng ta. Bởi vì một sự mù loà và chai cứng như thế chỉ dẫn tới những hậu quả thảm khốc cho số phận đời đời mà thôi. Chúa Giêsu đã kết thúc câu chuyện bằng một lời lẽ rõ ràng và minh bạch: Kẻ dữ sẽ phải lãnh nhận hình phạt đời đời, còn người lành sẽ có được sự sống vĩnh cửu.

Vấn đề chính yếu của chúng ta đó là phải cố gắng thực hiện những yêu cầu, những đòi hỏi của Chúa Giêsu luôn luôn muốn cho chúng ta được mọi sự tốt lành. Ngài sẵn sàng giơ tay trợ giúp, nhưng liệu chúng ta có nắm lấy bàn tay trợ giúp của Ngài hay không thì đó là bổn phận, là công việc của mỗi người chúng ta.

 

6. Phán xét

Đoạn Tin Mừng hôm nay đặt chúng ta vào trong quang cảnh hùng vĩ của cuộc phán xét chung. Ở đó, Đức Kitô giữ vai trò xét xử bá nhân bá tánh. Vậy thì sẽ phải xét xử ra làm sao? Hơn nữa, mỗi người có những hoàn cảnh, những nhiệm vụ, những khả năng riêng, do đó quả cân nào sẽ phân định tội trạng và công phúc?

Thế nhưng, đối với Chúa Giêsu mọi sự xem ra lại đơn giản. Muôn dân thiên hạ cuối cùng được phân chia thành hai loại được đặt ở bên phải và bên trái của Ngài. Tiêu chuẩn để phân biệt cũng rất đơn giản: Đã làm gì cho những kẻ bé mọn. Đối xử với những kẻ bé mọn, đói khát, trần truồng, tù tội, đau yếu là đối xử với chính Chúa vậy.

Sự phân xử của Chúa Giêsu trong ngày phán xét làm cho cả người lành lẫn kẻ dữ phải ngạc nhiên sửng sốt. Mọi sự sẽ dễ dàng hơn nếu như mỗi người trong cuộc đời của mình đã có lần được gặp Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt, với một bảng tên rõ ràng và một lý lịch minh mạch. Biết bao nhiêu người đã xả thân để giải phóng thánh địa chỉ vì đó là nơi đã ghi dấu tích sự hiện diện của Chúa, huồng hồ là gặp Chúa đói khát, trần truồng, đau yếu và tù tội. Ai có thể lại làm ngơ.

Nhưng cái làm cho chúng ta lúng túng đó là Chúa Giêsu đã đồng hoá mình với mỗi người trong anh em chúng ta, với những con người chúng ta gặp trong cuộc sống thường ngày tại khu phố, tại trường học, trên đồng ruộng, nơi công sở, ngoài chợ ngoài đường và nhất là với những kẻ làm chúng ta khó chịu vì cái nghèo nàn, thô kệch và quấy rầy của họ. Mọi người đều ngạc nhiên.

Nhưng Đức Kitô trong cương vị Đấng xét xử, đã tuyên bố: Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất là các ngươi đã làm cho chính ta. Và những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất là các ngươi đã không làm cho chính Ta. Thế là đã rõ. Đức Kitô xét xử theo tình yêu chúng ta đã có hay không có đối với anh em đồng loại, nhất là đối với những người hèn mọn về chức tước, danh vọng và của cải. Vương quốc của Đức Kitô chính là vương quốc của tình yêu. Giáo Hội tôn vinh Đức Kitô là Vua, nhưng Ngài không muốn ngự trên ngai vàng để mọi người bái phục, nhưng Ngài đã đến phục vụ những kẻ hèn và đồng hoá mình với họ.

 

7. Minh Họa Lời Chúa - Lễ Chúa Giêsu Vua Vũ Trụ

1. Chúa là người nghèo đói

Nhà danh họa Michel Ange có vẽ bức tranh "Ngày phán xét" trên trần nhà nguyện Sixtine. Bức tranh mô tả cảnh thiên đàng và hỏa ngục hai bên, Chúa Giêsu là vị thẩm phán. Bên trái Chúa là những kẻ dữ, thân hình tiều tụy, mặt mũi ủ dột. Bên phải Chúa là những người lành, thân thể rạng rỡ, gương mặt vui tươi...

Thiên Đàng thuộc về những người ở bên phải Chúa Giêsu là Vua thẩm phán, được Chúa mời gọi: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dành sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã viếng thăm. Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù mà viếng thăm đâu? Để đáp lại, Đức Vua sẽ bảo họ rằng: Ta bảo thật các người: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính ta vậy."

Và hỏa ngục thuộc những kẻ đứng bên trái Chúa là Vua thẩm xét. Người quở trách họ: " Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên ác quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã không thăm nom. Bấy giờ, những người ấy cũng sẽ thưa rằng: Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hoặc ngồi tù mà không phục vụ Chúa đâu? Bấy giờ, Người sẽ đáp lại họ rằng: Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính ta vậy." (Mt. 25,34-46)

Không cần phải đợi đến ngày chung thẩm mới có thiên đàng hỏa ngục. Thiên đàng và hỏa ngục đang xảy ra giữa chúng ta ở đây, trong lúc này: có thiên đàng khi chúng ta biết chia sẻ với đồng loại; có hỏa ngục khi chúng ta đóng cửa lòng mình trước đau khổ của tha nhân.

Như thế, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta mở rộng cửa lòng, mở rộng bàn tay ra thương giúp anh chị em chúng ta, nhất là những người nghèo khổ bất hạnh, để được Chúa là Vua thẩm xét chúng ta khen thưởng chúng ta. (Theo "Công Giáo và dân tộc", số đặc biệt Giáng Sinh năm 1998-1999).

2. Có bao giờ chúng con thấy Chúa đói?

Năm 1980 ở thành phố Paris (nước Pháp), có một linh mục ăn mặc nghèo hèn đến gõ cửa một nhà cha sở xin được trọ qua đêm. Cha sở tiếp khách rất thờ ơ, rồi chỉ cho linh mục đó lên gác xếp nhà xứ... Linh mục đó tên là Gioan Bosco, từ Turin, nước Ý sang Paris để quyên tiền về xây trường giáo dục các thiếu niên.

Nhiều năm sau, Giáo Hội đã tôn phong Gioan Bosco lên bậc hiển thánh. Khi nghe tin đó, cha sở đó nói:

- Phải chi lúc đó tôi biết ông ấy là Gioan Bosco, tôi đâu có để ngài ở trên gác xếp ấy, trái lại tôi đã dành phòng khách sang trọng nhất cho Ngài.

Chúng ta không bao giờ biết rõ những kẻ chúng ta gặp là những người như thế nào. Nhưng điều này không quan trọng. Điều quan trọng đối với những kẻ có đức tin là chính Chúa hiện thân trong những người ấy. Chúng ta thương giúp họ là thương giúp chính Chúa, và chúng ta sẽ được Chúa trọng thưởng.

"Chứng bệnh nặng nhất của thế giới hôm nay là cảm giác bị bỏ rơi, không ai để ý đến, không ai quan tâm chăm sóc.

Sự ác lớn nhất của thế giới hôm nay là thiếu tình yêu, là dửng dưng với người bên cạnh" (Trích "Sợi chỉ đỏ").

3. Là Vua tình yêu

"Khi đến nơi gọi là "Đồi Sọ", quân lính đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải một tên bên trái... Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: "Hắn đã cứu người khác, thì hãy cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn". Lính tráng cũng chế diễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: "Nếu ông là Vua dân Do Thái, hãy cứu lấy mình đi." Phía trên đầu Người có bản án viết: "Đây là vua dân Do Thái" (Lc. 23,33-38).

Chúa Giêsu là Vua không những vì Người đã sinh ra làm người thuộc dòng dõi vua Đavít, mà vì Người là Con Thiên Chúa. Người không thiết lập Vương Quốc của Người như một vương quốc trần gian bằng sức mạnh bạo lực, mà bằng cái chết của Người trên thập giá, để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người.

Thiên Chúa đã dùng hành động bêu xấu của quan Philatô khi quan này cho khắc trên thập giá Chúa Giêsu dòng chữ: "Đây là Vua dân Do Thái". Thiên Chúa đã dùng hành động bêu xấu đó để nhắc nhở con người. Chúa Giêsu Kitô là Vua tình yêu, vì Người đã thực hiện một việc cao cả tuyệt vời: hy sinh mạng sống mình vì yêu thương nhân loại và để cứu rỗi con người.

Chúa Giêsu là Vua tình yêu. Người đã chứng tỏ tình yêu tuyệt đỉnh của Người bằng cái chết trên thập giá. Người là Vua tình thương nêu gương cho chúng ta sống yêu thương như Người. Đó là sứ điệp cao trọng hơn mọi sứ điệp mà Người mời gọi chúng ta thực hiện qua Tin Mừng hôm nay. Ai thực hiện sứ điệp yêu thương của Người, Người sẽ khen thưởng. Trái lại kẻ nào ích kỷ chỉ sống cho mình mà không biết yêu thương giúp đỡ người khác, nhất là những người nghèo đói đau khổ thì bị "Người đuổi đi khuất mắt Người mà vào lửa đời đời" (Mt. 25,41)

Như thế Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta nhớ: vào ngày chung thẩm mỗi người chúng ta sẽ bị xét xử về việc chúng ta đã phục vụ Chúa Kitô Vua thế nào, qua "những em bé nhỏ nhất", nghèo khổ, bất hạnh nhất. Không phải đợi đến ngày tận thế, mà ngay hôm nay chúng ta phải làm thế nào để được Vua Giêsu phán bảo chúng ta: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi" (Mt. 25,34). (Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày", tập II).

4. Vua phục vụ

Vua Bađa mời quan đại thần vào và bảo:

- Nay trẫm đã già yếu sắp chết rồi, khanh hãy giúp trẫm tìm người kế vị, vì trẫm không có con trai như khanh đã biết.

Quan đại thần đề nghị:

- Xin vua hãy chọn một trong hai quan hầu cận vua làm người nối nghiệp.

Vua bằng lòng cho gọi hai quan cạnh thần đến nhưng vua không biết chọn người nào. Ông muốn thử xem trong hai quan đó xứng đáng kế vị mình, nên hỏi người bên phải:

- Này quan Kaisô, nếu được làm vua thì quan sẽ cai trị dân như thế nào?

- Thưởng phạt công minh, buộc dân phải nghe theo tôi.

Quay sang quan cạnh thần bên trái, vua hỏi:

- Tâu bệ hạ, nếu tôi được làm vua, tôi sẽ cai trị bằng mệnh lệnh rõ ràng, - Phần quan Cassô, nếu được làm vua, quan sẽ làm thế nào?

- Tâu bệ hạ, hạ thần vẫn tiếp tục làm như hạ thần đã làm, là làm người hầu hạ giúp đỡ mọi người.

Vua hỏi tiếp:

- Như thế nghĩa là gì?

- Tâu bệ hạ, chỉ có một sự khác biệt giữa vua và dân là chiếc ngai vàng, Vua đích thực phải là người phục vụ.

Thế là quan Cassô được chọn làm vua kế nghiệp vua Bađa.

"Vua đích thực phải là kẻ phục vụ". Như thế chỉ có một người xứng đáng nhất để chúng ta tuyên vương là Chúa Giêsu Kitô. Người đã tuyên bố: "Thầy đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống cứu chuộc mọi người".

Người con dạy các môn đệ: "Vua chúa và thủ lãnh thế gian thì bắt kẻ khác hầu hạ và phục vụ mình. Phần các con không phải thế. Ai trong các con muốn làm lớn, phải làm đầy tớ hầu hạ mọi người".

Chúa Giêsu không bao giờ nói mà không làm. Trong bữa ăn cuối cùng với các tông đồ, Người đã hành động như người tôi tớ khi rửa chân cho các ông. Qua cử chỉ đó, Người cũng báo trước cái chết của Người trên thập giá. Cái chết đó thể hiện đến tột cùng tinh thần phục vụ vì yêu thương nhân loại của Người. Và cũng trong cái chết đó, Người thể hiện trọn vẹn Vương Quyền của Người. Mão gai mà các lý hình đội lên đầu Người vô tình đã nói lên tất cả ý nghĩa vương tính của Người. Chúa Giêsu là vua phục vụ và phục vụ cho đến chết vì thương loài người và để cứu rỗi con người.

Mỗi Kitô hữu được mời gọi tuyên xưng vương quyền của Chúa Giêsu bằng cuộc sống phục vụ, yêu thương và quên mình đối với đồng bào đồng loại, và yêu thương phục vụ đồng loại là yêu thương phục vụ chính Người, vì Người đồng hóa với con người, nhất là những người nghèo khổ bất hạnh.

Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu thuật lại quang cảnh ngày phán xét chung. Khi Vua Giêsu tái giáng, Người phân xử và thưởng phạt mọi người theo những gì chúng ta đã hy sinh phục vụ anh chị em chúng ta. Người đồng hóa với tất cả những ai đang sống giữa chúng ta. Khi chúng ta chia cơm sẻ áo cho người anh chị em nghèo khổ xung quanh chúng ta là chúng ta làm cho chính Vua Giêsu của chúng ta. Trái lại, khi chúng ta chối từ và quay lưng lại trước nỗi khổ đau bất hạnh tinh thần hay thể xác của đồng bào đồng loại chúng ta là chúng ta khước từ Chúa Giêsu, Vua vũ trụ.

Mừng kính Chúa Giêsu là vua hôm nay, chúng ta khấn xin Người đổ tràn đầy tình yêu xuống tâm hồn chúng ta, cho chúng ta bừng cháy lửa yêu mến và phục vụ theo gương Người hằng ngày, cho đến ngày Người trở lại thẩm xét chúng ta, để ngày đó Người sẽ nói với chúng ta: "Này những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dọn sẵn cho các ngươi" (Mt. 25,34). (Theo "Lẽ Sống").

5. Cha đến với con ba lần

Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Hội Thánh long trọng mừng kính Chúa Giêsu Vua Vũ Trụ, là Vua muôn loài; đặc biệt loài người chúng ta. Lời Chúa trong ngày lễ kính Chúa Kitô Vua hôm nay nói gì với chúng ta?

Bài đọc thứ nhất và thứ hai mô tả dung mạo của Vua vũ trụ là Đấng chăm sóc chúng ta như mục tử chăn dắt và chăm sóc đoàn chiên và từng con chiên. Người hy sinh chính mình Người trên thập giá để cứu rỗi chúng ta, cho chúng ta sống lại hưởng vinh quang với Người. Người quy tụ chúng ta trong vương quốc của Người.

Bài Tin Mừng hôm nay nhìn lại thái độ của chúng ta trong vương quốc là Hội Thánh của Người. Chỉ có một thái độ xứng đáng làm công dân trong Nước Người là yêu thương phục vụ như Người; và yêu thương phục vụ nhau là yêu thương phục vụ Người.

"Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em nhỏ bé nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính ta" (Mt. 25,40)

Có thể nhiều lần chúng ta đã bỏ qua những dịp may để chúng ta yêu thương phục vụ Vua Giêsu của chúng ta, như câu chuyện của cô Maria sau đây:

Cô được Chúa hứa đến thăm trong ngày. Cô vui mừng chuẩn bị và náo nức ngồi chờ. Bỗng có tiếng gõ cửa, cô vội chạy ra mở: nhưng đó là một người ăn mày. Cô đóng cửa lại ngồi chờ. Đến trưa lại có tiếng gõ cửa, cô chạy nhanh ra mở, thì lại là một cụ già ăn mặc rách rưới!... Mãi đến chiều tối mới có tiếng gõ cửa. Cô tin chắc lần này Chúa đến thật, nên càng chạy nhanh ra mở cửa, nhưng cũng không phải Chúa mà là một bà lão đói khát, xin cơm ăn nước uống. Cô nổi giận đuổi bà đi...

Cô buồn phiền mệt mỏi quá nên thiếp ngủ... Trong giấc mơ, cô thấy Chúa đến. Cô liền trách:

- Sao Chúa không đến như đã hứa với con?

- Cha đã đến với con ba lần, nhưng đều bị con đuổi đi.

Ước gì chúng ta không bỏ mất những dịp may như cô Maria trên đây. Chúng ta còn có rất nhiều dịp may như thế trong đời sống chúng ta, từ nay cho đến ngày Vua Giêsu trở lại phán xét chúng ta.

(Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày", tập III).

Ông Hoàng Hạnh Phúc

Oscar Wilde đã viết một câu chuyện rất đẹp, tựa đề là The Happy Prince, như sau:

Một Ông Hoàng kia sống một cuộc đời rất hạnh phúc. Vì thế khi ông chết, người ta đã làm một bức tượng của ông, đặt trên một cái bệ cao giữa thành phố và đặt tên là Ông Hoàng Hạnh Phúc, như là biểu tượng may mắn sẽ mang hạnh phúc đến cho mọi người dân trong thành.

Một buổi chiều đầu mùa đông, một con chim én đến đậu dưới chân pho tượng. Bỗng một giọt nước rơi xuống đầu nó. Nó nhìn lên và ngạc nhiên vì đó là giọt nước mắt của Ông Hoàng. Ông đang khóc.

- Tại sao ông khóc? Ông là Ông Hoàng Hạnh Phúc kia mà!

- Từ khi đứng trên cao nhìn thấy cảnh sống của dân thành, ta đau lòng quá và không còn hạnh phúc nữa. Ta muốn đi giúp họ lắm, nhưng đôi chân ta bị chôn chặt ở cái bệ này nên không thể nào đi được. Bạn có thể giúp ta không?

- Không được, tôi phải bay đi Ai Cập.

- Hãy làm ơn giúp ta đêm nay đi.

- Thôi được. Bây giờ ông muốn tôi làm gì?

- Trong một túp lều đàng kia có một người mẹ đang khóc vì con bà bị bệnh mà bà không có tiền gọi bác sĩ. Bạn hãy lấy viên ngọc ở chuôi kiếm của ta đem cho bà ấy.

Chim én dùng mỏ lấy viên ngọc ra và bay đến cho bà mẹ nghèo. Nhờ có tiền, bà đã lo cho con bà khỏi bệnh.

Hôm sau Ông Hoàng lại xin chim én nán lại một đêm nữa để mang viên ngọc khác đến cho một người nghèo khác. Rồi hôm sau nữa đến giúp một người nghèo khác nữa. Cứ thế hết ngày này đến ngày khác, con chim én lấy các thứ trang sức của Ông Hoàng đem cho người nghèo. Cuối cùng trên mình Ông Hoàng không còn gì quý giá nữa. Khi đó đã là giữa mùa đông, trời đã lạnh rất nhiều.

Một buổi sáng, người ta thấy xác con chim én đã chết cóng dưới chân pho tượng Ông Hoàng trần trụi. Phía dưới thành phố, mọi người đều hạnh phúc. Họ có biết đâu hạnh phúc của họ là nhờ sự hy sinh của Ông Hoàng Hạnh Phúc và con chim én nhỏ bé kia.

(Sợi Chỉ Đỏ)

 

8. Đức Kitô Vua.

Đức Kitô có phải là Vua không? Chắc chắn Đức Kitô không phải là một thủ lãnh của một đảng phái đối lập, cũng chẳng phải là một vị vua chúa như người đời vẫn quan niệm. Suốt cuộc sống công khai, Ngài không bao giờ chấp nhận tước hiệu Messia, tước hiệu là vua theo mơ ước của dân chúng. Vì mơ ước của họ pha trộn quá nhiều những yếu tố trần tục, quá nhiều những tham vọng chính trị. Thực vậy, sứ mệnh của Ngài không như sứ mệnh của quận vương Hêrôđê, quyền bính của Ngài không như quyền bính của hoàng đế Lamã hay như bất kỳ một vị vua chúa nào trên trần gian.

Sứ mệnh của Ngài thuộc một lãnh vực khác. Chính vì thế mà chúng ta thấy nhiều lần Ngài đã từ chối cái cách tôn phong Ngài lên làm vua của dân chúng. Sau phép lạ bánh hoá nhiều dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài đã lẩn trốn. Nhưng cũng có lần Ngài sẵn sàng biểu dương trước công chúng, khi Ngài hiên ngang tiến vào Giêrusalem, xuất hiện với những phương tiện khiêm tốn, phù hợp với lời tiên báo của Giacaria. Ngài để cho dân chúng tung hô như là vua Israel. Trong phiên toà dân sự tại dinh Philatô, đề tài xét xử chính là vương quyền của Ngài. Khi Philatô hỏi: Ông có phải là vua dân Do Thái không? Chúa Giêsu không phủ nhận tước hiệu ấy, nhưng Ngài đã minh xác rằng: Vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian này.

Chúa Giêsu là Vua vũ trụ, là Vua mọi dân tộc, là Vua trên muôn vua, thế nhưng Ngài lại là một vị Vua bị đóng đinh, hoàn toàn bị tước lột khỏi những quyền lực trần thế. Đức Kitô đã lên ngôi bằng con đường của thập giá, của tình yêu. Kẻ thù duy nhất của Ngài là vương quốc của Satan, của thù hận, của chia rẽ và của tội lỗi.

Các ngai vàng, các vương miện, các triều thiên và áo cẩm bào chỉ là những đồ trang sức tạm bợ chóng qua, chúng ta không được phép hiểu vương quyền của Đức Kitô qua những hình ảnh đó. Chính Ngài cũng đã tự tách mình ra khỏi các thủ lãnh của trần gian như lời Ngài đã phán: Vua chúa các nước thì cai trị ân, và những kẻ làm lớn thì lấy quyền mà áp chế dân. Đức Kitô không phải là một thủ lãnh áp chế, trái lại cai trị theo Ngài có nghĩa là lột sạch mọi tự cao, hào nhoáng và vênh vang, cai trị đối với Ngài chính là phục vụ.

Đức Kitô phục vụ chúng ta và Ngài phục vụ một cách khiêm tốn, thận trọng và kín đáo. Ngài đã phục vụ đến độ hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Sự tự hạ của Ngài đi đến chỗ đồng hoá với những kẻ bé mọn và thấp kém nhất. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã thực sự dấn thân để phục vụ và giúp đỡ những kẻ bé mọn thấp kém chung quanh chúng ta hay chưa?

 

9. Suy niệm của Lm Jos Tạ Duy Tuyền

THIÊN CHÚA ĐÃ TRỞ NÊN GIỐNG NHƯ BẠN VÀ TÔI

Có một câu chuyện cổ tích kể rằng: ở một vương quốc nọ. Có một vị vua cao sang quyền qúy, thế mà lại yêu say đắm một cô thôn nữ miền sơn cước. Nhà vua định cưới nàng làm hoàng hậu nhưng có quá nhiều trở ngại, khiến nhà vua phải nhiều đêm đắn đo suy nghĩ. Vì tục lệ chỉ cho phép nhà vua cưới các công nương vương triều. Tuy rằng ngài có đầy quyền lực để xem thường truyền thống nhưng ngài vẫn không dám quyết định. Hơn nữa, một ý nghĩ khác nảy sinh khiến ngài càng khó quyết định, vì nhà vua sợ sự khác biệt về địa vị khiến tương quan giữa hai người sẽ khó mà tự nhiên với nhau, cô gái có thể thán phục đức vua nhưng không thực sự yêu ngài. Vua vẫn là vua, nàng vẫn là thôn nữ chốn hồng hoang. Vua liền nảy sinh một sáng kiến, ngài từ bỏ ngôi vua để sống như một nông dân, để gần gũi và hoà đồng với nàng, nhưng nhà vua lại sợ, với cương vị một chàng nông dân liệu rằng cô thôn nữ còn yêu nữa mình hay không? Cuối cùng, vì quá yêu nàng, nhà vua vẫn đánh liều bỏ mọi sự để hai người có một tình yêu đích thực và trọn vẹn.

Câu chuyện bỏ ngỏ ở đây. Câu chuyện không dẫn thính giả đến lời đáp trả của nàng thôn nữ, có đón nhận tình yêu của nhà vua hay từ chối tình yêu. Nhà vua đã rời bỏ ngai vàng, đã chấp nhận trắng tay vì nàng, nhưng liệu rằng nàng có dám yêu anh “khố rách áo ôn”, khi địa vị, danh vọng, tiền bạc của nhà vua đã không còn? Câu chuyện cũng không dẫn độc giả tới tuyệt đỉnh của một tình yêu là “một túp lều tranh, hai trái tim vàng”. Câu chuyện không có đoạn kết, vì đoạn kết tùy thuộc vào tâm trạng của mỗi người đều có quyền điền vào cho hợp với ý của mình. Câu chuyện chỉ muốn gợi lên cho độc giả về một tình yêu cao cả mà nhà vua đã dành cho cô thôn nữ hèn kém này. Một tình yêu thật lớn lao đến độ dám từ bỏ ngai vàng vì một cô thôn nữ xa lạ chỉ một lần thấy thoáng qua trong đời.

Vâng, câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Đây là một câu chuyện có thực về tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta. Thiên Chúa hằng yêu thương bạn, yêu thương tôi. Ngài là một vị vua đã tự bỏ ngai vàng, cung điện và cả cung cách của một vì Thiên Chúa để mặc lấy thân phận tôi đòi như chúng ta. Ngài quá yêu chúng ta đến nỗi đã trở nên “đồng hình đồng dạng vì chúng ta”. Ngài đã trở thành một “Emmanuel vì chúng ta”. Nhưng tiếc thay nhân loại hôm qua cũng như hôm nay đã không nhận ra Ngài. Họ cần một vì Thiên Chúa đánh đông dẹp tây, quyền uy sang trọng. Họ cần một vì Thiên Chúa để họ điều khiển theo ý của họ. Họ đòi Thiên Chúa đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng của họ hơn là chính họ phải hành động theo ý của Thiên Chúa. Năm xưa dân Do Thái đã không nhận ra Chúa khi Ngài mang thân phận của một con người như họ. Họ còn xem thường về nguồn gốc của Ngài. Cho dù họ đã chứng kiến biết bao phép lạ phi thường mà chỉ có bàn tay Thiên Chúa mới có thể thực hiện được. Thế mà, họ lại xuyên tạc là nhờ tướng quỷ mà làm được những việc này việc nọ. Từ việc xem thường gốc gác về Ngài, họ đã đẩy Ngài đến án tử trên đồi Golgotha. Chúa vẫn một lòng yêu thương tha thứ, ngài vẫn tiếp tục yêu thương và yêu thương cho đến cùng, vì Ngài là tình yêu.

Vâng, câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Thiên Chúa vẫn đang gõ cửa từng cuộc đời chúng ta. Ngài hằng mong chúng ta đón nhận Ngài qua những con người túng thiếu cơ hàn, qua những mảnh đời tha phương cầu thực, qua những bất hạnh của những anh em đang ở bên cạnh chúng ta. Thiên Chúa đã trở nên đồng hình đồng dạng vì chúng ta, Ngài vẫn cần chúng ta trao ban cho Ngài những nghĩa cử yêu thương. Ngài vẫn đang cần chúng ta săn sóc Ngài trong tôn trọng và vị tha. Ngài vẫn cần chúng ta dâng hiến cuộc đời để phục vụ Ngài một cách quảng đại và bao dung. Ngài là một vì Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận con người, nhưng liệu rằng, bạn còn yêu Ngài hay không? Chúng ta yêu một vì Thiên Chúa quyền uy thì dễ nhưng liệu rằng chúng ta có dễ dàng yêu một vì Thiên Chúa đã hoá thân làm người trong thân phận hài nhi yếu đuối, bị truy đuổi, bị loại trừ hay không? Chúng ta sẵn lòng cúi mình làm tôi cho những ai mang lại cho ta tiền bạc, danh vọng, niềm vui, nhưng liệu rằng chúng ta có muốn cùng Chúa đi trên con đường thập giá, đường hy sinh bản thân để trở nên nguồn hạnh phúc cho anh chị em mình không?

Hôm nay, là ngày lễ Chúa Giêsu là Vua, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy sống đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Vì yêu thương ta Ngài đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài, chúng ta hãy phục vụ Ngài qua anh em của chúng ta. Vì yêu thương ta, Ngài đã chấp nhận chết để cứu độ chúng ta, chúng ta hãy biết chết đi bản tính ích kỷ của mình, chết đi những toan tính tội lỗi của mình để sống xứng đáng với tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Nguyện xin Chúa Giêsu là Vua cai trị và dẫn dắt chúng ta đi trong đường chính nẻo ngay, và xin Ngài ngự trị thánh hoá cuộc đời chúng ta trong hồng ân và tình thương của Ngài. Amen.

 

10. Quyền lực của đồng tiền

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có một chú rể trước khi tập sự cho hôn lễ, đã bí mật gặp vị mục sư và đưa ra lời đề nghị.

- Tôi sẽ đổi 100 đô la lấy việc bỏ các từ ‘yêu thương, tôn trọng, vâng lời và chung thủy với cô ấy mãi mãi’ trong lời thề kết hôn.

Vị mục sư đồng ý và nhận lấy 100 đô la với vẻ hài lòng.

Hôm sau, vào buổi lễ chính thức, vị mục sư nhìn thẳng vào mắt chàng trai, mỉm cười nhẹ nhàng và chậm rãi nói:

- Chàng trai, bạn có hứa sẽ luôn sẵn sàng phủ phục mình trước mặt cô gái đứng trước mặt đây, vâng theo mỗi mệnh lệnh của cô ấy, mang đồ ăn sáng đến bên giường cô ấy vào mỗi buổi sáng trong suốt cuộc đời của bạn. Đồng thời thề trước mặt Chúa sẽ không bao giờ thèm nhìn bất kỳ người phụ nữ nào khác cho đến khi cả hai không còn trên cõi đời này nữa không?

Chú rể nuốt nước bọt và nhìn xung quanh, đáp lại bằng một giọng rất nhỏ nhẹ:

- Vâng.

Sau nghi thức, chàng trai ngay lập tức bám chặt lấy vị mục sư và rít lên:

- Tôi nghĩ chúng ta đã có một thỏa thuận?

Lúc này, vị mục sư mới đặt lại vào tay chú rể tờ tiền cũ và thì thầm:

- Cô ấy đã đưa cho tôi 200 USD cơ!

Chưa bao giờ chúng ta thấy quyền lực của đồng tiền lên ngôi như ngày hôm nay. Có tiền thì có chức. Có chức thì có tất cả. Có tiền có thể sai khiến. Sai khiến người khác làm cả những chuyện bất chính hay phi đạo đức. Có tiền có thể bẻ cong công lý. Đồng tiền có thể giúp người có tội trở thành không!

Có lẽ vì đồng tiền có một sức mạnh như thế nên người người đi kiếm tiền. Kiếm tiền bằng mọi cách. Kiếm tiền bằng mọi thủ đoạn miễn sao có tiền! Thực tế, ai đã vào đời, bôn ba xuôi ngược trên chợ đời, tranh đua với người đời mà không một lần cảm nghiệm cái mãnh lực của đồng tiền? Đồng tiền nối liền với khúc ruột của con người, nó cũng chính là cái nguyên do đưa đến buồn vui sướng khổ của nhân loại? Cũng chính đồng tiền đã đưa đẩy con người tới thành công hay thất bại, được thiên hạ nể vì, nhân nhượng hay khinh khi coi thường! Vì thế tiền bạc đã biến thành một thứ quyền lực vô song, có ảnh hưởng trong cuộc sống con người. Thế sự thăng trầm, con người thay lòng đổi dạ, xã hội đảo điên, luân thường đạo lý bị xáo trộn, tất cả cũng vì ảnh hưởng của đồng tiền.

Đồng tiền thực sự có một sức mạnh và quyền lực nhất định trong cuộc sống. Nó mang đến hạnh phúc cho con người nếu con người tạo ra nó từ sự chính nghĩa, nhưng nó cũng có thể làm sa ngã hoặc huỷ hoại một nhân cách khi ai đó tôn sùng nó hơn tất cả mọi điều khác trong cuộc đời. Cái giá phải trả cho sự mù quáng trước "Quyền lực của đồng tiền" là đánh mất bản thân, tình thân, tình yêu - những điều mà đồng tiền không bao giờ có thể “mua” lại được.

Hôm nay lễ Chúa Kitô Vua, Giáo hội nhắc nhở chúng ta còn có một giá trị quý hơn tiền, hơn danh lợi thú là có được Đức Kitô ngự trị. Đồng tiền sẽ không mua được Nước Trời. Đức Kitô thì hứa ban cho chúng ta sự sống đời đời. Đồng tiền không mang lại bình an cho con người, nhưng Đức Kitô là niềm hoan lạc nếu chúng ta để cho Ngài chỗ nhất trong cuộc đời. Đồng tiền khiến chúng ta sống ích kỷ, hưởng thụ. Đức Kitô biến chúng ta thành những con người có ích cho tha nhân với thái độ phục vụ quảng đại và vô vị lợi.

Đồng tiền là nguyên nhân gây nên những chia rẽ, tranh chấp, hận thù. Đức Kitô là nguyên lý cho sự hiệp nhất bình an. Chiếm được đồng tiền thì con người bo bo giữ lấy trong ích kỷ, xa lánh mọi người. Chiếm được Đức Kitô thì con người sẽ chia sẻ đến cho muôn người. Thế nê, có Đức Kitô trong cuộc đời là có bình an, có hạnh phúc, có niềm vui. Vắng Đức Kitô sẽ chỉ còn những tranh chấp, xa lánh và đố kỵ lẫn nhau.

Ước gì chúng ta luôn tìm kiếm Đức Kitô và dành cho Ngài vị trí số một trong cuộc đời. Ước gì loài người chúng ta hãy hãnh diện là loài làm chủ đồng tiền chứ không phải là nô lệ của đồng tiền. Có chăng là biết quy phục một mình Đức Kitô mà thôi.

Xin Chúa giúp chúng ta biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự. Xin cho chúng ta luôn can đảm chọn lựa giá trị vĩnh cửu hơn là những hào nhoáng của danh lợi thú mau qua. Amen.

 

11. Chúa Kitô Vua – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Hầu hết các dân tộc thời xưa đều mơ ước và tin rằng vua của họ là con Trời, vì chỉ có con Trời mới là toàn năng công minh, thấu suốt mọi sự, mới giúp dân, ban ơn cho dân muôn phần tốt đẹp. Họ thường nói: Vua là Thiên tử, Trời có mắt, đèn Trời soi sáng, xin Trời phù hộ.

Bên Đông Phương, Khổng Tử đã thấy rõ Vua Nghiêu, Vua Thuấn, Vũ Vương, Văn Vương làm vua theo mệnh Trời, cho nên vương quốc thời cổ đại của các ngài thật lý tưởng. Kinh Thư viết: "Trời giúp dân, đặt vua cai trị, đặt thầy dạy dỗ: Thiên hựu hạ dân, tác chi quân, tác chi sư" (Thái hệ thượng 7).

Nhận biết Trời đặt mình làm vua, các ông hết lòng, hết sức vâng theo mệnh Trời để giúp dân. Vua Vũ Vương viết " chỉ vì phục vụ Thượng Đế giúp nhân dân bốn phương: "Duy kỳ khắc tướng Thượng Đế, sủng tuy tứ phương" (Thái thượng 7). Người ta đã gọi thời đó là Hoàng kim thời đại: dân được tôn trọng: "Lấy dân làm gốc: Duy dân bang bản". "Gốc kiên cố, nước được an ninh thịnh vượng: Bản cố, bang minh". "Khắp nơi bốn bể thông thương, hòa hợp: Tứ hải hội thông" (Ngũ Tử 4 và Vũ Công 30).

Do đó về sau, các Vua Tầu, Nhật và Việt Nam đều được gọi là con Trời: Thiên Tử, Quân Tử, tuy nhiều kẻ bất xứng. Bên Tây phương, Ba Tư, Ai Cập, Hy Lạp hay La Mã, đều coi vua là con Thần Trời.

Dân Do Thái khi chưa có vua, họ đòi Tiên tri Samuel: "Thế nào cũng phải có vua cho chúng tôi" (1Sm. 8,19). Và ai được chọn làm Vua đều được thánh hiến bằng xức dầu tấn phong, trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa: Thiên Chúa nói với Sứ ngôn Nathanael: Hãy đi nói với Đavít: "Ta là cha nó, nó sẽ là con Ta" (2Sm. 7, 5.14 và Tv. 2,7). Nếu Vua trung thành thực hiện sự công chính trong vương quốc và bảo đảm thịnh vượng cho toàn dân, Thiên Chúa sẽ bảo vệ Vua khỏi tay quân thù (Tv. 20, 21 và 45, 4-8).

Nhưng ngay cả Đavít được gọi là Thánh Vương và Salomon được khôn ngoan không ai bằng, vẫn đầy bất xứng, bất trung. Loài người dù Nghiêu, Thuấn, Đavít hay Tổng thống, Thủ tướng không thể làm vua xứng đáng với ơn Thiên Chúa, và sự mong muốn của nhân dân. Vì thế Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài đến cứu vãn nhân loại. Chỉ có Người Con duy nhất đó mới chính là vua thật của nhân loại đến muôn đời: Đó là Đức Giêsu Kitô. Vua Giêsu khác với vua thế gian ở hai lĩnh vực trần thế và nước Trời. Ở trần thế, Ngài là Vua như mục tử nhân lành, Ngài tụ họp những con chiên bị phân tán, tìm con chiên lạc, băng bó chiên bị thương tích, chữa lành chiên bị đau ốm, chăn dắt chăm sóc đoàn chiên theo đường công chính (Bài I - Êz. 34, 11-17).

Chính Đức Giêsu đã tuyên bố: "Tôi là Mục tử nhân lành, Tôi biết chiên Tôi và chiên Tôi biết Tôi" (Ga. 10, 10. 11-14) Tôi đến để cho chiên Tôi được sống và được sống dồi dào. Tôi chính là Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên.Ngài còn là vua như tôi trung đau khổ: Ngài hạ mình khiêm tốn, nhường nhịn, dịu hiền, khả ái: "Đây là tôi trung Ta đã tuyển chọn, rất yêu dấu, rất đẹp lòng Ta. Thần khí Ta ngự trên Người. Người loan báo công lý trước muôn dân, Người không cãi vã, kêu to, chẳng ai nghe thấy tiếng Người ngoài phố xá. Người không đành bẻ gẫy cây lau đã giập, chẳng nỡ tắt tim đèn leo lét, cho đến khi Người đưa công lý toàn thắng và muôn dân hy vọng danh Người". (Mt. 12, 18-21).

Ngài làm Vua chỉ chuyên chăm lo phục vụ và hy sinh, Ngài nói: "Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người", "chứ không như vua thế gian lấy quyền thống trị dân bắt dân phục vụ mình" (Mt. 20, 25. 27-28)

Từ hơn 700 năm trước, tiên tri Isaia đã loan báo về Người Tôi Trung đau khổ đã hy sinh đến cùng cực: "Ngài đã bị khinh bỉ như đồ phế thải, bị trừng phạt đầy đọa, bị đâm, bị tra tấn, bị nghiền nát làm hy lễ tạ tội, Ngài chịu đựng, không mở miệng, ngậm câm như chiên cừu bị dẫn đến lò sát sinh ". Ngài bị liên lụy vì tội vạ hết thảy chúng tôi để giải án tuyên công nhiều người (Is. 53, 1-11) và Thiên Chúa đã đặt Ngài làm "Cố vấn kỳ diệu, Thần anh dũng, Cha đời đời, Vua bình an, quyền binh Ngài bao la vô tận, cho nước được bền vững kiên cố từ nay cho đến muôn đời, nhờ công minh đức nghĩa Ngài" (Is. 9, 5-6)

Ở nước Trời, Đức Giêsu là vua đích thực muôn đời vì Ngài đã hạ mình xuống làm tôi trung, làm mục tử, vâng lời Chúa Cha hiến mình chịu chết trên Thập giá để cứu chuộc muôn dân, đưa muôn dân về tôn vinh Thiên Chúa Cha trong nước vinh phúc hằng sống, "chính vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài, ban cho Ngài một danh hiệu trên mọi danh hiệu để trên trời dưới đất và hỏa ngục phải bái quỳ khi nghe danh thánh Giêsu" (Phil. 2,6).

Ở trên trời, "Ngài ngự trên ngai vinh quang, có các Thiên Thần hầu cận, để đón rước chúc phúc cho những ai cho kẻ đói ăn, khát uống, tiếp đón khách lạ, cho kẻ trần truồng mặc, thăm nom kẻ đau yếu, tù đầy. Ai có lòng trong sạch, hiếu hòa, hy sinh vì nước Trời, Ngài thưởng công cho họ được thừa hưởng vương quốc, được Cha Ngài ban phúc hưởng sự sống muôn đời. Còn kẻ không biết thương người đói khát, rách rưới, đau yếu, đau khổ, không biết hy sinh vì nước Trời bị Ngài loại bỏ, chúng phải vào chốn cực hình muôn kiếp" (Mt. 25, 31-46)

Lạy Chúa Giêsu là Vua, xin cho các vị lãnh đạo biết sống theo gương Chúa là Mục tử nhân lành và Tôi Trung đau khổ để họ sáng suốt phục vụ và hy sinh cho đồng loại. Xin cho con tận tâm chăm lo cho kẻ đói ăn, khát uống, giúp đỡ những ai rách nát nghèo hèn, an ủi những người đau khổ, bệnh tật để họ được sống lại trong tình thương muôn đời của Chúa. Amen.

 

12. Khi tình người mất - bạo lực lên ngôi

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Mỗi ngày chỉ cần lướt qua vài trang báo là có thể thấy vô số tin "tức" về hành vi bạo lực trong xã hội, mà nguyên nhân đâu có gì to tát: va quệt xe cộ ngòai đường, lời qua tiếng lại trong quán cà phê... thế là đánh nhau; một cái "nhìn đểu" cũng đủ là nguyên nhân giết người. Không thể không tự hỏi: vì sao bây giờ người ta nhục mạ nhau, đánh nhau, giết nhau... dễ dàng đến thế?

Dư luận Việt Nam thời gian qua rất phẫn nộ khi đọc được những dòng tin trên Facebook của một người có nick name "Kẹo Mút Chơi Bời" khoe khoang rằng: "Chúng tôi vừa đâm một ông già gần 60 tuổi... khả năng chết."

Sau đó lại thêm: "Tin buồn! Chúng tôi vô cùng thương tiếc báo tin, cụ già 60 tuổi đêm qua chúng tôi đâm xe máy đã củ tỏi hồi 17g07 ngày 02.11. Anh em phang lô đề nhiệt tình đi. Lão sinh năm 1953."

Trước hiện trạng này, có người cho rằng một số thanh niên Việt Nam hiện nay không hề thấy lương tâm cắn rứt khi làm thiệt hại đến vật chất lẫn tinh thần của người khác, trái lại còn tỏ ra vui mừng, đặc biệt trong trường hợp này.

Tin từ Công an Thành phố Yên Bái cho biết người có nickname "Kẹo mút chơi bời" trên Facebook đã tới trình diện cơ quan công an ngày 10/11 theo giấy triệu tập để làm rõ hành vi gây phẫn nộ "lên Facebook khoe tông xe chết người".

Đúng như xác minh của Cơ quan Công an Thành phố Yên Bái, người có nickname "Kẹo mút chơi bời" trên Facebook tên thật là Nguyễn Văn Linh (SN 1991, thị trấn Phong Hải, huyện Bảo Thắng - Lào Cai).

Theo Luật Sư Phạm Thanh Bình của công ty luật Hồng Hà thì "Kẹo Mút Chơi Bời" dù không phải là thủ phạm gây tai nạn (là người ngồi sau người gây tai nạn), nhưng không chịu đưa nạn nhân đi cấp cứu gây nên cái chết của ông này thì có thể bị xem xét trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này, tội danh dành cho người đồng phạm đó là "không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng."

Phải chăng xã hội ngày hôm nay đang đánh mất tình đồng loại bằng thái độ dửng dưng, thiếu trách nhiệm và vô cảm trước những bất hạnh của tha nhân? Có lẽ chủ nghĩa "Mackeno" đã ăn sâu vào tâm thức người trẻ hôm nay. Họ không còn tính nghĩa hiệp. Họ không còn nghĩ đến việc phải ra tay giúp đỡ tha nhân khi cần. Họ thích sống cho riêng mình và tìm tư lợi cho cá nhân hơn là dám sống cho lợi ích tha nhân. Họ không còn dám sống "mình vì mọi người" mà chỉ còn đòi người khác "mọi người vì mình" mà thôi.

Xã hội hôm nay dường như đã mất tình liên đới nên thiếu những nghĩa cử cao đẹp của tình người như: "lá lành đùm lá rách" hay "chị ngã em nâng". Ngày xưa cha ông ta đã tìm được sự nâng đỡ của đồng bào, dẫu rằng nước có mất nhà có tan, nhưng vẫn tìm được niềm vui nhờ sự yêu thương đùm bọc của tình làng nghĩa xóm như câu ca dao xưa đã nói:

"Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng".

Ngày nay điều đó đã thay vào bằng sự vô cảm như lời tâm sự của chị Ngô Lan Chi thổ lộ trên trang facebook cá nhân: "Xã hội ngày càng phát triển, những giá trị đạo đức tốt đẹp đang bị các bạn trẻ dẫm nát bằng những phát ngôn gây sốc, bằng những việc làm mà không ai có thể tượng tượng ra. Tôi nghĩ lối sống vô cảm của một bộ phận bạn trẻ đang ngày càng biến tướng và có xu hướng lan rộng đối với những người trẻ xung quanh".

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải sống tình liên đới với tha nhân, không chỉ vì có chung một Cha trên trời nên "tứ hải giai huynh đệ", mà còn vì con người là "hình ảnh Thiên Chúa". Chính Chúa đã tự đồng hoá mình với những mảnh đời bất hạnh lầm than. Chúa mời gọi chúng ta: ai tiếp rước họ là tiếp rước chính Chúa. Ai giúp đỡ họ là giúp đỡ chính Chúa. Ngược lại, Chúa cũng sẽ luận phạt vì chúng ta đã từng khước từ thi ân cho những con người cùng khổ đó.

Thực vậy, trong ngày phán xét, Chúa không hỏi về bằng cấp của chúng ta cao hay thấp. Chúa không xét duyệt chúng ta dựa trên địa vị trần thế của chúng ta. Chúa phán xét theo tinh thần bác ái mà chúng ta đã dành cho tha nhân. Vâng, chúng ta đều phải trả lẽ trước mặt Chúa về tất cả những hành vi của mình. Nhưng công hay tội tuỳ thuộc vào lòng bác ái chúng ta có hay không trong những lời nói và việc làm của mình. Chúa đã từng chê trách thái độ vô cảm của những biệt phái, và của những thầy tư tế khi để mặc người bị nạn trên đường đến Giêricô. Chúa cũng từng dùng dụ ngôn để răn dạy thái độ dửng dưng trước bất hạnh của đồng loại qua dụ ngôn "người phú hộ và Lagiaro". Chúa cũng sẽ luận tội nếu chúng ta cũng thiếu trách nhiệm và sống thiếu tình liên đới qua đời sống yêu thương và phục vụ tha nhân.

Chúa Giêsu là Vua, nhưng Ngài đã cúi mình phục vụ tha nhân. Ngài tự hoà nhập với con người. Ngài đồng hành với con người. Ngài chia sẻ phận người nổi trôi với con người. Ngài đã đến để phục vụ và hiến mạng sống vì hạnh phúc tha nhân. Ngài còn mời gọi chúng ta "ai muốn làm lớn hãy cúi mình phục vụ anh em".

Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết sống cao đẹp cho dẫu có thiệt thòi vì đi ngược lại với lối sống của thế gian. Xin cho chúng ta luôn can đảm làm chứng cho tình yêu bất diệt của Chúa là dám "thí mạng sống mình vì người mình yêu" và biết yêu thương tha nhân như chính mình. Amen.

 

13. Nhân quả – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái Mt 25,33).

"Nhân" là nguyên nhân, "Quả" là kết quả. Nhân là cái mầm. Quả là cái hạt do mầm ấy phát sinh. Trong nhân có qủa và trong qủa có nhân. Chính trong Nhân hiện tại có hàm chứa cái Qủa tương lai. Nhân thế nào thì Qủa thế ấy. Thưởng phạt ngày sau đều tùy thuộc vào những hành động tốt hoặc xấu của chúng ta thực hiện ngày hôm nay. Nói chung, ai trong chúng ta cũng muốn được hưởng hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau. Chúng ta biết con đường lên thiên đàng là thiên đàng mà. Nếu chúng ta muốn được hưởng an lạc ngày sau, chúng ta phải sống vui tươi và an bình ngày nay. Biết rằng cuộc đời ai cũng có những sự chen lẫn giữa vui sướng và khổ sầu. Sự khổ đau trong cuộc sống không phải luôn luôn là sự tiêu cực. Vì sự đau khổ cần thiết như là những thử thách để giúp ta tinh luyện cho cuộc đời sáng thêm. Ví như lửa thử vàng, gian nan thử đức vậy.

Kết thúc Năm Phụng Vụ, Giáo Hội mừng Đại Lễ Chúa Kitô Vua, Vua Các Vua, Chúa Các Chúa. Chúa Giêsu là trung gian giao hòa giữa trời với đất. Ngài đã nhập thể để rao truyền tin mừng cứu độ. Chính Ngài là trung tâm và là cốt lõi của tất cả mọi sự hiện hữu. Ngài mở lối dẫn chúng ta vào hưởng niềm vui hạnh phúc Nước Trời. Con đường Chúa đi là con đường yêu thương trong khổ giá. Muốn lãnh nhận ơn cứu độ, chúng ta phải dõi theo lối bước của Ngài. Hai giới răn nồng cốt tóm kết tất cả lề luật là yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh chị em như chính mình. Đức yêu thương được thể hiện qua sự giúp đỡ, chia sẻ, thăm viếng và sống tình bác ái với nhau. Con đường đức ái là con đường tuyệt hảo dẫn vào quê trời.

Chúa Giêsu dẫn bước chúng ta vào cuộc sống thật ngày sau qua dụ ngôn phân định Chiên và Dê. Chiên và dê chỉ là hình ảnh tượng trưng gởi theo một sứ điệp nói về sống bác ái vị tha. Chiên dê, phải trái, bên này bên kia hay thiên đàng hỏa ngục là ranh giới để phân biệt tốt xấu, lành dữ và thưởng phạt. Phúc thay những ai được xếp vào hàng bên phải: Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ (Mt 25, 34). Không phải tự nhiên hùa theo đám đông mà được ơn cứu độ. Mỗi người phải phấn đấu từng ngày để nên trọn lành. Chúng ta có thể quan sát hình ảnh một thửa ruộng trong đó có lúa và cỏ dại. Khi chủ ruộng vun xới chăm sóc cả hai lúa và cỏ đều được hưởng phân bón và tưới gội đồng đều. Lúa và cỏ cùng chung hưởng nắng ban mai, sương sớm và mưa nguồn. Phát triển tốt nhưng kết qủa thì khác nhau, lúa trổ sinh bông hạt và được thu hoặch cho vào kho lẫm. Còn cỏ dại bị người ta chà đạp và thu gọn đem thiêu đốt.

Theo giáo lý Nhà Phật, nhân là năng lực phát động, Quả là sự hình thành của năng lực phát động ấy. Nhân và quả là hai trạng thái tiếp nối nhau mà có. Nếu không có Nhân thì không có Quả và nếu không có Quả thì không có Nhân. Cũng chính trong cái Quả hiện tại, đã có hình bóng của Nhân quá khứ. Vì thế, mỗi vật đều có thể gọi là nhân hay quả: Đối với quá khứ, thì nó là quả, nhưng đối với tương lai thì nó là nhân. Nhân và qủa tiếp nối nhau và đắp đổi nhau như những vòng trong sợi dây chuyền. Nhân qủa đi đôi và ảnh hưởng tới nhau như gieo gió thì gặt bão. Việc lành hay việc dữ đều có quả báo, chỉ khác nhau đến sớm hay muộn mà thôi. Đôi khi chúng ta tự hỏi rằng tại sao những người làm ác mà họ vẫn sống phây phây lại giầu có sung sướng, trong khi những người hiền lành, đạo đức lại rơi vào cảnh túng quẫn và khổ đau. Câu trả lời là đời sống tạm này chưa kết thúc, chúng ta chưa thể kết luận thế nào là hạnh phúc thật.

Một Nhân không thể sinh ra Quả, mà phải nhờ vào môi trường vạn vật chung quanh. Sự vật trong vũ trụ nầy đều là sự tổ hợp của nhiều nhân duyên. Cho nên không có một Nhân nào có thể tự tác thành kết quả được, nếu không có sự giúp đỡ của nhiều Nhân khác. Sự liên đới trùng trùng điệp điệp giữa muôn loài làm thành bước tiến của thiên nhiên vạn vật. Không có thụ tạo nào đứng riêng biệt một mình trong vũ trụ. Nói rằng hạt lúa sanh ra cây lúa, là nói một cách giản dị cho dễ hiểu, chứ thật ra hạt lúa không thể sanh ra gì được cả, nếu để một mình nó giữa khoảng trống không, thiếu không khí, ánh sáng, đất nước và nhân công. Có biết bao nhiêu yêu tố để hình thành một chuỗi Nhân Quả. Trong bất cứ một loài thụ tạo nào cũng có mỗi liên hệ chằng chịt với thế giới hiện hữu chung quanh.

Về phương diện tinh thần, những tư tưởng và hành vi trong quá khứ, tạo cho ta những tính tình tốt hay xấu trong hiện tại. Tư tưởng và hành động quá khứ là Nhân, tính tình và nếp sống trong hiện tại là Quả. Tính tình và nếp sống hiện tại là Nhân, để tiếp tục tạo ra hành động trong tương lai là Quả. Nhân Qủa tiếp nối không ngừng qua những hành vi chúng ta thực hiện hằng ngày. Chúng ta có thể thay đổi và sửa sai những lầm lỡ trong qúa khứ để tạo thành Nhân tốt. Không bao giờ trễ, nếu chúng ta biết bắt đầu lại. Mỗi ngày chúng ta có thể tạo nhân tốt, hậu qủa sẽ tốt. Sống trong xã hội, con người phải tương trợ và có ảnh hưởng lẫn nhau. Tục ngữ nói: Gần mực thì đen, gần đèn thị rạng. Một người làm phúc, muôn người đều được hưởng nhờ. Một cây trổ hoa, cả vườn cây thơm hương.

Sống bác ái vị tha là một bổn phận cao quý của con người. Chúng ta thường gặp thấy các Tăng Ni Phật Giáo đi khất thực. Các Tỳ-kheo đi một mình hay từng nhóm, không đứng trước cửa chợ mà đi theo thứ tự, từ nhà này sang nhà khác, không phân biệt, mắt nhìn xuống và yên lặng đứng đợi trước mỗi cửa nhà để xem thức ăn có được đặt vào bình bát không. Khất thực là xin vật thực của người đời để nuôi thân mà cũng còn có bổn phận nhắc nhở chúng sinh làm việc phúc đức. Trong Đạo Công Giáo, Kinh Bổn có dạy thương người có mười bốn mối, thương xác bảy mối: Cho kẻ đói ăn. Cho kẻ khát uống. Cho kẻ rách rưới ăn mặc. Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc. Cho khách đỗ nhà. Chuộc kẻ làm tôi. Chôn xác kẻ chết. Thương linh hồn bảy mối: Lấy lời lành mà khuyên người. Mở dạy kẻ mê muội. Yên ủi kẻ âu lo. Răn bảo kẻ có tội. Tha kẻ dể ta. Nhịn kẻ mất lòng ta. Cầu cho kẻ sống và kẻ chết. Đây là những mối phúc quan trọng giúp đỡ tha nhân về vật chất và tinh thần. Thật ngạc nhiên khi chúng ta nghe Chúa Giêsu dùng dụ ngôn nói về ngày phán xét. Ngài phán xét về thực hành đức yêu thương hơn là về những sa ngã phạm tội khác. Được thưởng hay bị phạt đều tùy thuộc vào việc thực hành mười bốn mối này.

Con người không thể nên tốt một mình, nhưng phải tương trợ lẫn nhau mà sống. Người ta thường nói: Thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Ba yếu tố kết thành sự thành công. Chúng ta cần có tha nhân để cùng chia sẻ nâng đỡ, cần có cuộc sống xã hội để cộng tác xây dựng và cần có người đồng hành để chung vai sát cánh gánh vác công việc. Ngày phán xét sau cùng, thẩm phán sự sống sẽ hỏi chúng ta về sự liên đới Nhân Qủa giữa người với người. Với những người tạo Nhân tốt qua việc bác ái, sẽ được nghe những lời an ủi: Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước (Mt 25, 35).

Bất cứ vị thánh nào cũng có trái tim yêu thương rộng mở. Các Ngài biết chia sẻ và dâng hiến. Hiến dâng cuộc đời cho Chúa và phục vụ tha nhân. Không có sự liên đới với tha nhân, chúng ta khó có thể nên trọn lành. Tha nhân tốt hoặc xấu vẫn có thể sẽ giúp chúng ta nên tốt lành. Chúng ta có thể tìm tựa nương đức ái nơi những người khốn cùng, nghèo đói, cô đơn, bệnh hoạn, tù đầy và thất vọng. Họ chính là hình ảnh của Đấng đã dám thí mạng vì yêu. Giúp đỡ những kẻ bé mọn và cùng khốn nhất là chúng ta đang làm cho chính Chúa, Chúa Giêsu đã phán: Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta' (Mt 25, 36).

Thật đáng phải run rẩy và sợ hãi khi chúng ta phải đối diện với sự phán xét sau cùng. Thiên Chúa nhân từ nhưng công bằng vô cùng. Giờ phán xét sẽ không có một ai khác chống lưng cho chúng ta. Chúng ta cũng không còn điểm tựa nào khác để biện hộ. Sự thật phơi bầy trước tôn nhan chói lòa của Tạo Hóa. Chúng ta gieo Nhân nào thì sẽ được gặt Qủa đó. Trong cuộc lữ hành trần thế, biết bao lần chúng ta ngoảnh mặt làm ngơ trước nỗi đau khổ, đói khát và cùng quẫn của anh chị em, giờ đây chúng ta phải đối diện: Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: 'Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng (Mt 25,41).

Ngày phán xét, Chúa sẽ không chất vấn chúng ta về bao nhiêu việc vĩ đại đã thực hiện. Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ: Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời (Lc 10,20). Thiên Chúa không đếm bao nhiêu giờ chúng ta đã đọc kinh, cầu nguyện, lần hạt, tụ họp sinh hoạt… Chúa sẽ nhìn xem trái tim của chúng ta đã mở rộng yêu thương đến mức nào. Chúng ta đã chia sẻ gì cho những kẻ bé mọn nhất của Chúa. Thiên Chúa tạo dựng chúng ta qua ý muốn của Chúa, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Chúa lại dành quyền cho chúng ta lựa chọn. Hạnh phúc thay những ai được Chúa cho đứng về phía bên phải: Còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu" (Mt 25,46).

Lạy Chúa, đã rất nhiều lần chúng con đã thưa rằng: Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu? (Mt 25,44). Chúa trả lời: Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta'. (Mt 25,40). Xin Chúa khơi dậy lòng yêu thương bác ái nơi tâm hồn, để chúng con biết cùng chia sẻ. Chúng con cảm tạ danh Chúa muôn ngàn đời. Amen.

 

14. Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ

Hôm nay, Chúa nhật 34 thường niên, Chúa nhật kết thúc năm năm Phụng Vụ. Hội Thánh tôn kính vương quyền của Chúa Giêsu nhằm nói lên cùng đích của Phụng Vụ, là làm cho loài người được tôn vinh một khi họ được thông dự vào vương quyền của Đức Kitô Giêsu Tình Yêu.

Chúa Giêsu Kitô là Vua, Vua Tình Yêu. Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Ngài là Vua công bình và đầy yêu thương. Vương quốc của Ngài là vương quốc của tình yêu. Dân của Ngài phải là những người biết sống yêu thương. Lẽ đương nhiên, muốn vào Vương quốc của Ngài, phải là người biết sống yêu thương, yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh em thật sự. Vì thế “chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu mến”. Yêu mến cụ thể là phục vụ Chúa Kitô Vua trong tha nhân, những người đang sống chung quanh chúng ta, đang cần chúng ta giúp đỡ, đặc biệt là những người “nghèo khó, bé nhỏ”.

Trong dụ ngôn cuộc phán xét chung, Thánh Matthêu tường thuật lại quang cảnh ngày cánh chung, khi Vua Giêsu tái lâm và Ngài phân xử mọi người tốt hay xấu, lành hay dữ, thiện hảo hay ác độc, đều có mặt và phân xử rõ ràng. Tiêu chuẩn để mà phân xử, tách ra là những gì chúng ta thực hiện cho tha nhân. Chúa Giêsu Kitô, Vua tình yêu, Ngài đồng hóa với những ai đang sống chung quanh và giữa chúng ta khi chúng ta chia sẻ tình thương, cơm áo cho người đói khổ trần truồng, khi thăm viếng người bị bệnh hoặc bị tù đày: “Ta đói, các ngươi đã cho ăn. Ta khát, các ngươi đã cho uống. Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước. Ta đau yếu, các ngươi đã chăm sóc…”. Vì thế, khi chúng ta làm cho họ là chúng ta đang làm cho Chúa: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm chính cho Ta vậy”. Thiên Chúa yêu thương và công bình sẽ dựa vào những hành động và thái độ ứng xử của chúng ta đối với tha nhân để mà xét xử.

Khi đó, chúng ta thấy: Đức Vua đã làm cho những người lành đứng bên phải, cũng như những kẻ dữ đứng bên trái, đều phải chưng hửng. Người bên phải rất sửng sốt khi thấy Vua Giêsu kể những việc tốt họ đã làm cho những người bất hạnh trong cảnh đói khát, rách rưới, tù đày, như là những việc giúp đỡ họ dành cho chính bản thân Đức Vua. Còn người bên trái cũng hết sức ngỡ ngàng khi thấy Đức Vua đồng hoá bản thân Ngài với những người mà họ đã coi thường, nên đã không cho họ cơm ăn, áo mặc, nhà ở…Họ không ngờ rằng mỗi lần họ tiếp đón hay hất hủi những người cần đến họ giúp đỡ là họ đã tiếp đón hay hất hủi chính Chúa Giêsu!

Ngược lại, khi chúng ta từ chối lẫn nhau và quay lưng trước những bất hạnh tinh thần và thể xác của anh em đồng loại thì cũng là lúc chúng ta rời xa Chúa Giêsu, rời xa Thiên Chúa.

Thiên Chúa đã âm thầm đi vào giữa đám đông nhân loại mà không ai biết. Chúng ta dễ dàng gặp Chúa lúc chúng ta không ngờ. Nếu chúng ta nhận được rằng Thiên Chúa không phải là Vua thống trị nhưng là Vua phục vụ, thì chúng ta không thể không nhận ra Ngài nơi những người bé mọn nhất. Chúng ta sẽ không còn thắc mắc như người lành hay kẻ dữ trong ngày phán xét cuối cùng: “Thưa Ngài, có khi nào chúng tôi thấy Ngài đói, Ngài khát, Ngài rách rưới… đâu?”. Bởi vì Thiên Chúa đã đi vào từng môi trường. Chúa đi vào con người. Chúa đi vào hoàn cảnh. Vua Giêsu khẳng định với chúng ta rằng Thiên Chúa tự đồng hoá với khuôn mặt của hàng triệu, triệu con người trên thế giới đang ê chề trong cảnh thiếu ăn, nghèo đói, thất nghiệp hay những công việc nô lệ, vô nhân đạo, đang bị kẻ mạnh áp bức hay người quyền thế bóc lột.

Mừng lễ Chúa Kitô là Vua hôm nay, chúng ta xác tín rằng: Chúa Kitô là Vua. Vương quốc của ngài là vương quốc của tình yêu. Ai sống trong tình yêu thì thuộc về Chúa Kitô và là công dân của Nước Thiên Chúa. Tình yêu, nói được là như “ chứng minh nhân dân” của Nước Thiên Chúa. Chắc hẳn, Tình yêu không đòi hỏi nhiều lời nói hơn bằng nhiều hành động thiết thực, sống động, cụ thể là chia sẻ chính những lo lắng khó khăn, khốn khổ cùng cực của đồng bào trong hoàn cảnh xã hội chúng ta đang sống. Hãy phục vụ những Vua Kitô ấy để vào ngày cuối cùng Vua Kitô sẽ mời gọi chúng ta “ hãy đến, hỡi những người cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc đã dành sẵn cho anh em từ thưở đời đời”. Thiết lập Nước Thiên Chúa trong thế giới này là một ưu tiên trước hết của những người theo Chúa Kitô. Chúng ta được gọi để công bố Nước Chúa trong hòa bình, công lý và yêu thương. Tác giả sách Khải Huyền diễn tả: "Tôi thấy trời mới đất mới. Trời cũ đất cũ đã qua đi... Tôi thấy thành thánh Giêrusalem mới xinh đẹp như cô dâu trang điểm ra gặp chú rể. Tôi nghe tiếng nói lớn: "Đây là nơi Thiên Chúa ở với con cái loài người. Họ là dân của Chúa và Chúa là Chúa của họ. Chúa sẽ ở với họ." Đây không phải chỉ là một thành phố mới nhưng là một bầu khí mới. Hãy yêu thương và chia sẻ cho kẻ khác như Chúa yêu chúng ta và chúng ta sẽ trở nên toàn vẹn như Chúa muốn cho mỗi người chúng ta.

Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa cho một năm Phụng Vụ đã qua, một năm chúng ta nhận lãnh rất nhiều, nhiều ân sủng của Thiên Chúa qua các Bí Tích, qua Thánh Lễ mỗi ngày, qua các biến cố trong cuộc sống, qua các mối tương quan chúng ta có lẫn nhau. Chúng ta cũng xin Thiên Chúa là Cha tha thứ cho chúng ta, vì những tội lỗi mà chúng ta xúc phạm đến tình yêu của Chúa và những tổn thương gây ra cho anh em mình, nhất là những người ta gặp gỡ mỗi ngày. Sau đó chúng ta có một quyết tâm mới cho những ngày tháng hồng ân của Năm Mới mà chúng ta chuẩn bị đi vào.

Lạy Chúa Kitô là Vua của Tình Yêu, xin giúp chúng con biết sống yêu thương như Chúa để chúng con sẽ được dự phần trong Vương quốc tình yêu của Ngài. Amen.

 

15. Vua mục tử

(Suy niệm của Lm. Văn Hào SDB)

“Ngài sẽ ngồi trên ngai vinh hiển, như một mục tử” (Mt 25,31-32).

Những công trình nghệ thuật và văn chương cổ điển, như những bức họa của Michelangelo tại đền thờ Sixtine hay của họa sĩ Dante, rất cuốn hút người xem với những cảnh vẽ về ngày phán xét sau cùng. Sự pha trộn những nét tương phản được diễn tả rất sống động, như sự đối kháng giữa thiên thần và quỷ dữ, giữa lửa và mây, giữa những con người vui sướng vì được cứu thoát và những kẻ bị chúc dữ đầy khiếp sợ. Các bức họa muốn diễn bày ý tưởng, là trong ngày chung thẩm, người tốt lành sẽ được ân thưởng, và kẻ gian ác sẽ bị luận phạt. Các họa sĩ cũng mô tả chân dung của Đấng phán xử như một vị Vua uy lực, đấng sẽ ra phán quuyết tối hậu về số phận của mọi người, người tốt cũng như kẻ xấu. Những hình ảnh này chắc chắn làm an tâm những ai đang cố gắng sống ngay lành, tuy còn phải nỗ lực hoàn thiện, đồng thời cũng gợi nhắc những ai làm điều xấu phải cố gắng hoán cải để nên hoàn thiện hơn.

Hình ảnh một vị Vua thần thánh đầy uy quyền, công bố những phán quyết để xử phạt, hoàn toàn đối nghịch với hình ảnh của một Thiên Chúa yêu thương qua dáng dấp một vị mục tử nhân lành, mà bài đọc thứ nhất cũng như Thánh vịnh đáp ca hôm nay gợi tả. Dung mạo của Đấng Chăn Chiên nhân hậu luôn chăm sóc đoàn chiên, đi tìm kiếm các con chiên lạc, thu gom chúng về đàn để không bị tản mát, chữa trị những con bị đau yếu, dẫn chúng về đồng cỏ xanh tươi đầy ắp thức ăn bổ dưỡng, cho chúng thư thái nghỉ ngơi và được no khát nơi dòng suối trong - hoàn toàn đối nghịch với một Đấng uy quyền ngồi trên tòa cao ngất ngưởng để xét xử và ra những phán quyết nhằm nghiêm phạt. Trong Tin mừng Matthêu, nhiều lần Đức Giêsu đã nói với các môn đệ hãy bắt chước Ngài, sao chép lại tình yêu mục tử giống như Ngài. Ngài chạnh lòng thương cảm trước đám đông như bầy chiên lang thang không người chăn dắt (Mt 9,36). Ngài sai các môn đệ đi “tìm các con chiên lạc nhà Israel (10,6). Ngài cũng khuyến mời các học trò hãy thực hành giống như Ngài, một người chăn chiên liều lĩnh, đã bỏ lại 99 con trên đồng vắng để đi kiếm tìm con chiên lạc mất (18, 10-14).

Trong trình thuật Tin mừng hôm nay, thánh Matthêu dung hòa cả hai chiều kích xem ra có vẻ đối nghịch này, để khải thị chủ đề về cánh chung. Một đàng, là vào giờ phút chung thẩm sau hết, sự chọn lựa cuộc sống nơi mỗi người chúng ta mang tính chất quyết định và không thể thay đổi. Đàng khác, Đức Giêsu, đấng ngồi trên ngai phán xử lại là một Người Chăn Chiên giàu lòng nhân hậu. Đức Giêsu vừa là một Vị Vua uy quyền, ngự trên ngai tòa cao sang, nắm trong tay toàn quyền sinh sát trên tất cả sinh linh, đồng thời, Ngài cũng là một mục tử hiền lành, rất mực bao dung và đầy lòng thương xót. Hình ảnh sống động nhất nơi dụ ngôn không phải là dung mạo một ông vua với vinh quang chói sáng theo quan điểm trần gian, nhưng là một Đức Vua cao cả được đồng hóa với khuôn mặt của những con người cùng khổ đang đói, đang khát, đang lang thang nơi đầu đường xó chợ, đang rét mướt trần trụi không manh áo che thân, đang quằn quại bi thương trong bệnh hoạn hay đang bị giam giữ chốn lao tù. Những con người khốn khổ này được đồng hóa với chính Đức Giêsu. Điệp khúc đó được lập đi lập lại bốn lần trong câu truyện dụ ngôn, như muốn làm vang lên những tiếng thét gào ai oán của những người khốn khổ nhất. Họ giống như những con chiên thương tích và ốm yếu trong đàn đang cần được chăm sóc. Những học trò của Đức Giêsu khi thực hành giáo huấn này, biết bày tỏ lòng thương cảm đến các cận nhân chung quanh, chính là họ đang hiển thị dung mạo yêu thương của Đức Giêsu - Vua Mục Tử, một cách rõ nét nhất.

Trong Tin Mừng Gioan, quyền uy của Đấng chăn chiên hiện lộ trong việc kết hợp thân tình giữa chủ chăn và đoàn chiên (10,14), khi người mục tử biết từng con chiên(10,3), và người chăn chiên hy sinh ngay cả mạng sống mình cho đoàn chiên (10,11). Đây là uy quyền được diễn bày bằng tình yêu, một thứ uy quyền được sẻ chia, được trao ban để đi vào lòng người, chứ không phải là một thứ uy lực đứng ngạo nghễ trên cao, chỉ để công bố những phán quyết trừng phạt cách nghiêm khắc.

Bài Tin Mừng hôm nay cũng cảnh báo chúng ta. Đương nhiên, chúng ta không khiếp sợ trước một vị vua oai phong nghiêm trị các thần dân khi chúng ta sao lãng bổn phận do lơ là hay yếu đuối. Nhưng những ai vẫn ngoan cố đóng khép lòng mình lại, chối từ lòng thương xót của Đấng Chăn Chiên nhân hậu, chính họ đã tự chuốc lấy án phạt cho chính mình.

Mỗi người chúng ta có tự do để chọn lựa số phận muôn đời. Sự định đoạt đó tùy vào thái độ chúng ta hôm nay có biết đón nhận hay khước từ tình yêu của Vị Chăn Chiên nhân hậu, đấng luôn yêu thương và muốn cứu độ chúng ta.

 

16. Vua của lòng thương xót

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

Vua Vũ Trụ đã từng mong được xót thương…

Ấn tượng trước hết tôi có khi đọc đoạn Tin Mừng về ‘cuộc phán xét chung’ là theo đạo chẳng có ích gì, bởi vì khi ‘tập hợp các dân thiên hạ trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê’ thì Vua Vũ Trụ đâu có áp dụng tiêu chuẩn tôn giáo, có đạo hay không; cũng vậy khi phán ‘hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn’ cũng đâu chỉ dành cho những người đã rửa tội, năng chịu các phép bí tích. Tiêu chuẩn Người áp dụng có vẻ quá đời thường, quá nhân bản, và có phần nào quá thực dụng chủ nghĩa nữa là khác, đến độ cả các không Kitô hữu (non-Christians) cũng dễ dàng đạt được: sống bác ái, sống từ nhân với hết mọi người. Các Phật tử chẳng hạn có lẽ còn thực thi ‘từ bi xả hỉ’ hơn cả người Công giáo, các đồng chí đồng đội ngoài chiến trường còn đùm bọc nhau keo sơn hơn cả các tu sĩ trong cộng đoàn. Nếu đã như thế thì làm Kitô hữu được Phúc Âm dạy bảo, được các Bí Tích đỡ nâng, được các luật lệ, luân lý chở che… thực sự sẽ mang lại cho tôi ích lợi gì trong cuộc xét xử ngày Đức Vua quang lâm?

Ấn tượng tiếp theo là Đức Vua này quá chủ quan. Người xét xử không căn cứ theo một bộ luật khách quan được ban hành, trong đó có cả luật ‘mến Chúa yêu người’ vẫn thường được coi là quan trọng hơn hết. Luật pháp phải khách quan, nhất là khi xét xử, để cứ theo đó mà áp dụng công bằng cho mọi người. Đàng này tiêu chuẩn Đức Vua dùng để xét xử lại chỉ qui hướng trực tiếp về cá nhân Ngài thôi: “vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ các ngươi đã tiếp rước, Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã thăm viếng, Ta ngồi tù các ngươi đến hỏi han”. Khi đặt các lời trên vào miệng Quan Án, hình như Đức Giêsu muốn cho thấy chính Đức Vua vinh quang từ lâu vẫn hằng chờ mong để mình được mọi người xót thương và gia ân. Như vậy được chúc phúc hay bị nguyền rủa đều dựa trên một tiêu chuẩn chung là lòng nhân ái mà mỗi người có trong tương quan thuận hay nghịch với một Đức Vua hằng xót thương tha thứ và chờ đợi được thương xót lại.

Chập hai điều này lại với nhau, tôi mới thoáng phát hiện ra một nét độc đáo và siêu việt của ơn gọi Kitô hữu mà mình được diễm phúc tiếp nhận. Nhiều người không phải là Kitô hữu, chưa hề biết gì về Đức Vua hằng thương xót và hay tha thứ, nhưng vô hình chung lại thường xuyên đi vào tương quan thuận với ‘Đấng dấu mặt’ hằng chờ đợi được xót thương “Có bao giờ chúng tôi đã thấy Chúa đói, khát, là khách lạ, trần truồng, đau yếu hay ngồi tù…?” để mà cho ăn, cho uống, đón tiếp, cho mặc, thăm viếng hỏi han… Đức Giêsu cho thấy rõ, thế là đã quá đủ để tạo một tương quan thuận với Thiên Chúa tình yêu và chỉ đòi hỏi có tình yêu. “Ta bảo thật: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong các anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính ta vậy”. Tôi thành thực chúc mừng các anh chị em chưa được biết Chúa vì thật may cho anh chị em! Thế nhưng, nếu chỉ mới giữ có một vế (làm mà không biết) mà đã được như thế, huống hồ chi nếu giữ được cả hai vế (làm và biết). Kitô hữu là những người duy nhất trên trần gian này được diễm phúc có cả hai vế để tiến vào tương quan cá vị sâu đậm nhất với Đức Vua xót thương và chờ đợi được xót thương. Nhờ đức tin mà ngay từ ngày lãnh phép rửa tội họ đã nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng đầy lòng nhân ái và yêu thương; trong suốt quá trình sống đời Kitô hữu, nhất là khi lãnh nhận các Bí Tích, đặc biệt bí tích giải tội, họ đã có không biết bao nhiêu dịp để cảm nghiệm được lòng từ ái của Đức Vua; Lời Chúa hằng thôi thúc họ diễn đạt tương quan với Người bằng đời sống bác ái, yêu thương và phục vụ. Tiêu chuẩn sống của họ không còn phải là một điều luật khách quan ‘kính Chúa yêu người’, mà đã là một tương quan nhân vị mới, cho dầu theo cách nói quen thuộc của người Do Thái Đức Giêsu gọi đó là ‘Điều răn mới’, “là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34). Do đó không một Kitô hữu nào sẽ còn dám nói “Có bao giờ chúng tôi đã thấy Chúa đói…” Rồi họ còn có muôn ngàn dịp để nhận ra và cảm nghiệm Đức Vua yêu thương họ, cũng như họ thừa biết rằng Đức Vua họ tôn thời khao khát được họ yêu mến và xót thương lại biết là dường nào, đặc biết qua các hành động nhân hậu đối với người anh em. Do đó khi gặp lại Đức Vua quang lâm, các Kitô hữu sẽ phải là những người “đứng thẳng và ngẩng đầu lên!” (Lc 21:28) vì họ đã biết chắc rằng mình đứng bên phải trong số các kẻ “được Cha Ta chúc phúc”.

Lạy Đức Vua Vũ Trụ, Vua tình yêu và xót thương, cảm tạ Vua đã cho con cơ hội tuyệt vời để nhận biết con được Người thương xót và Người cũng khao khát được con xót thương lại. Chớ gì chương trình sống Kitô của con chỉ đơn giản là nhận biết mình được xót thương để rồi cố gắng đáp trả. Xin cho mọi người, không phân biệt lương giáo, biết cùng nhau ban phát lòng xót thương Chúa hằng khao khát, nhờ chính các Kitô hữu chúng con nhận thức ngày càng sâu sắc hơn, và nhắc nhở cho mọi người rằng: có một Đức Vua yêu mến và xót thương hết thảy mọi người. Amen.

 

17. Cuộc xét xử tình yêu – Cố Lm. Hồng Phúc

Giữa công trường Thánh Phêrô ở La Mã có một ngọn tháp cao chót vót mang một cây Thánh giá vươn lên giữa trời xanh. Ngọn tháp có từ đời Hoàng đế Caligula, được đưa về dựng giữa công trường năm 1586. Trên ngọn tháp có khắc ba câu sau đây:

Christus vincit: Chúa Kitô toàn thắng.

Christus regnat: Chúa Kitô hiển trị.

Christus imperat: Chúa Kitô thống quản.

Ngày hôm nay, Giáo hội cũng đọc lại ba câu khắc trên đá tạc vào lòng đó, để tôn vinh Chúa Giêsu là Vua, nhân ngày bế mạc năm Phụng vụ.

Từ trên chóp đỉnh năm Phụng tự, Giáo hội cho chúng ta thấy vị trí cao sang của Con Thiên Chúa là vua toàn thể vũ trụ.

Trong Cựu ước, các vua được gọi là mục tử dân Chúa, vì các vị lãnh đạo đầu tiên như Abraham, Moisê, Davit là những người chăn chiên. Trong bài đọc thứ nhất, Tiên tri Ezechiel mô tả Thiên Chúa là một vì Vua chăn dắt đoàn chiên. Ngài tập họp đoàn chiên tan tác vì tội lỗi của chính mình cũng như của các nhà lãnh đạo. Ngài giải cứu chúng khỏi miệng sói dữ. Ngài tân tình phục vụ đoàn chiên cách riêng những thành phần đau yếu bé mọn. Ngài đối xử với đoàn chiên như bà mẹ săn sóc con cái: “Ta sẽ tìm con chiên đã mất, sẽ đem con chiên lạc về, sẽ băng bó con chiên bị thương tích, sẽ lo chữa con chiên bị ốm đau… Ta sẽ chăm sóc và sẽ chăn dắt nó trong sự công chính”. Thật là hình ảnh cảm động của Thiên Chúa, một nhà Vua Mục Tử.

Thánh Phaolô trong Thánh Thư gởi giáo đoàn Corintô, đề cập đến Vương quyền cao cả và vô hạn của Thiên Chúa. Đức Kitô Phục sinh là Alpha và Omêga, nghĩa là khởi điểm và cùng tận. Nhờ Ngài, mọi sự đã phát sinh thì nhờ Ngài vạn vật sẽ trở về với Thiên Chúa Cha. Ngài đã Phục sinh, đã toàn thắng sự chết thì con người cũng không phải hoảng sợ trước sự chết. Chúa Kitô chính là Thầy, là Vua. Ai tin ở Ngài sẽ không phải chết: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống”. Ngài thật là Vua, là Chúa, có quyền trên sự sống và sự chết.

Bạn đã có dịp đến Vatican kính viếng Thánh điện Sixtine và chiêm ngưỡng bức danh họa vĩ đại của Michel-Ange về Ngày Thẩm phán theo Phúc Âm Matthêô? Thật là lớn lao vĩ đại. Họa sĩ để ra một năm, nằm trên sàn vẽ, vừa vẽ vừa suy niệm về ngày phán xét chung. Chúa Giêsu, Đấng Thẩm phán, đến trong vinh quang để xét xử công tội của mỗi người. Bài Phúc Âm hôm nay, tuy nói đến cuộc giáng lâm của Chúa, nhưng trước tiên là nói đến số phận của mỗi người: “Ngài sẽ đến ngự trên ngai uy linh, có hết thảy mọi Thiên thần hầu cận và Ngài sẽ phân chia họ ra”.

Trước mặt Ngài chỉ có những người đã sống trong Tình yêu và những người đã chối bỏ Tình yêu. Con người lộ diện trần trụi, giờ sự thật đã điểm.

“Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính mình Ta. Và những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em hèn mọn nhất của Ta, là các ngươi đã không làm cho chính mình Ta”.

Cuộc thẩm phán là một cuộc xét xử về Tình yêu, yêu Chúa và yêu tha nhân, vì Thiên Chúa là Vua, Vua Tình yêu vậy.

Ngày mồng 01 tháng 10 năm 1989, Giáo hội đã long trọng phong Chân phước cho Nicéphore Diez (1893-1936) và 25 Bạn Tử đạo thuộc Dòng Thương khó, tử đạo trong cuộc nội chiến 1936 ở Tây Ban Nha. Phần đông các vị đã đồng thanh kêu lớn tiếng: “Vạn tuế Chúa Kitô là Vua”, trước khi ngã gục trước họng súng.

Chúng ta cùng với Giáo hội lớn tiếng hôm nay tuyên xưng Christus vincit- Christus regnat- Christus imperat.

 

18. Lễ Chúa Kitô Vua – Lm. Phêrô Trần Văn

Việc Giáo Hội long trọng mừng kính Chúa Kitô là Vua vũ trụ vào Chúa Nhật cuối của năm phụng vụ muốn dạy tất cả tín hữu rằng Ngài là tâm điểm của mọi sự vật trong lịch sử. Ngài chính là khởi điểm và cũng là cùng đích của mọi thụ tạo, là alpha và omega.

Để có thể tiến đến vinh quang phục sinh Ngài đã phải đi trọn con đường đau thương khổ gía, và chỉ có con đường đó mới dẫn đến sự sống mà thôi. Cả cuộc sống và cái chết của Ngài là một chia sẻ chân thành nhất những khốn khổ của thân phận con người. Ngài đã không bảo chúng ta phải vác thập giá của Ngài mới có thể làm môn đệ Ngài, nhưng là vác thập giá của chính mình. Thập giá của chúng ta tuy khác với cái của Ngài, xong xuất phát từ một tấm lòng chân thành muốn cùng được tham dự vào chính thập giá của Ngài. Thập giá của chúng ta là lời mời gọi hãy thực tình chia sẻ những nỗi thương đau của bao nhiêu anh chị em đồng loại. Nếu không thực hiện lời mời gọi này trong cuộc đời, là các tín hữu đã thoái thác hay tránh né con đường khổ giá để đi con đường tắt, bưng tai bịt mắt và giả điếc làm ngơ trước những lầm than của tha nhân. Con đường đi ngang về tắt ấy khiến chúng ta đánh mất cơ hội duy nhất được chia sẻ đau khổ với đức Kitô và anh chị em đồng loại, rồi chắc chắn dẫn ta đến một cùng đích khác hơn là vinh quang phục sinh của Vua vũ trụ.

Tin Mừng hôm nay vang vọng như lời nhắc nhở và hối thúc chúng ta đừng ẩn núp xa khỏi những hoạn nạn của tha nhân, nhưng cần xông xáo đi tìm để san sẻ, xoa dịu những nỗi cám cảnh của người đồng loại, vì họ cũng là con cái yêu dấu của Thiên Chúa: " Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy." Chính lời của Ngài đã nhìn nhận và đồng hóa bản thân mình trong hình ảnh những anh em bé nhỏ nhất trong xã hội con người. Với lời xác quyết rõ ràng đó, Ngài không muốn chúng ta từ chối một linh hồn nào bằng bất cứ lý do gì.

 

19. Vương quốc tình yêu

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy nhiều sự thật quan trọng về kết cục của con người.

Sự thật thứ nhất là: thế giới này sẽ chấm dứt. Không có gì vĩnh cửu ở đời này. Mọi sự sẽ qua đi. Những gì được coi là bền vững lâu dài rồi cũng tan thành cát bụi. Của cải, tài năng, công danh cũng sẽ trở thành hư vô. Cả đến con người cũ cũng không còn. Sau cùng mọi người bằng nhau và phải đến trước tòa Chúa để chịu phán xét.

Sự thật thứ hai là: mọi người sẽ bị xét xử. Tất cả mọi người sẽ tụ tập lại. Tất cả mọi người sẽ phải trả lời về những gì mình đã làm trong cuộc đời. Cuộc xét xử sẽ diễn ra công khai. Những trách nhiệm liên đới sẽ được sáng tỏ. Những liên hệ thầm kín sẽ được phơi bày. Nếu trên trần gian ta phải chứng kiến bất công thì tại phiên xử cuối cùng này sẽ có công bằng tuyệt đối. Chẳng ai có thể mua chuộc vị quan tòa tối cao, quyền uy và công thẳng.

Sự thật thứ ba: sẽ có một vương quốc mới. Tuy nhiên kết thúc thế giới cũ không phải là chấm dứt tất cả. Chúa Giêsu tổng kết thế giới cũ để đưa nhân loại vào một thế giới mới. Thế giới không còn thời gian. Thế giới vĩnh cửu. Thế giới không còn đau khổ. Thế giới hạnh phúc tràn đầy. Vì Chúa sẽ thiết lập một vươn quốc mới: vương quốc tình yêu. Cuộc xét xử chính là một cuộc tuyển lựa những công dân cho vương quốc mới. Vì là vương quốc tình yêu nên chỉ những ai có tình yêu mới được vào. Luật lệ trong vương quốc mới chỉ có một luật duy nhất: luật tình yêu. Việc cai trị cũng chỉ theo một nguyên tắc duy nhất: tình yêu. Chúa Giêsu trở thành Vua Tình Yêu.

Sự thật thứ bốn: đời này là cơ hội duy nhất. Thế giới mới và vương quốc mới không phải bất ngờ mà có, nhưng được xây dựng ngay từ đời này. Đời này tuy chóng qua nhưng là cơ hội để ta xây dựng vương quốc mới. Những ai có lòng yêu thương anh em, đặc biệt những anh em nghèo khổ, bé mọn, sẽ được tuyển chọn vào Nước Trời. Đời này ngắn ngủi nhưng lại là cơ hội duy nhất. Hết đời này sẽ không còn cơ hội nữa. Sẽ đi đến chung cuộc. Vì thế ta phải vội vàng mau mắn thực hành giới luật yêu thương, kẻo không kịp.

Với dụ ngôn ngày phán xét cuối cùng, Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho ta hết những bí mật của vận mạng thế giới. Và chỉ vẽ cho ta con đường để được nhận vào Nước Chúa: thực hành yêu thương bằng những việc làm cụ thể. Cho người đói ăn. Cho người khát uống. Cho người rách rưới ăn mặc. Thăm viếng người đau yếu và kẻ tù đầy. Đây là những việc vừa tầm tay mọi người. Ai cũng có thể làm được. Ai cũng có điều kiện để làm.

Lạy Chúa Giêsu Vua Tình Yêu, xin cho con biết thực hành yêu thương, để được nhận vào Nước Chúa. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Dụ ngôn ngày phán xét cuối cùng cho thấy những sự thật nào?

2- Ta có thể làm chủ vận mạng mình được không?

3- Điều kiện để được vào Nước Chúa có khó khăn gì không?

4- Nếu mọi người đều thực hiện Lời Chúa, bạn nghĩ thế giới này sẽ như thế nào? Có trở thành vương quốc của Chúa được không?

 

20. Công dân nước trời – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Ngày xưa ngày xưa, hai anh em cùng sống và làm việc chung trên một cánh đồng và chung một cối xay. Mỗi tối về, họ chia đều hoa lợi đã thu hoạch trong ngày. Người em sống độc thân, còn người anh có vợ và nhiều con cái. Bất chợt một hôm, người em sực nghĩ: “Thật không công bằng chút nào việc chia đều hoa lợi. Mình chỉ có một mình còn anh ấy pải nuôi cả vợ con nữa”. Thế rồi mỗi đêm, người em âm thầm lấy bớt số thóc lúa của mình đem đổ vào kho của người anh.

Gần như đồng thời, người anh sực nghĩ: “Thật không công bằng chút nào việc chia đều hoa lợi. Vì mình có con cái cấp dưỡng trong lúc tuổi già. Còn chú ấy sống một mình, sẽ chẳng có ai cấp dưỡng. Chú ấy cần dự phòng cho tuổi già sau này”. Thế rồi, mỗi đêm, người anh âm thầm lấy bớt số thóc của mình đem đổ vào kho của người em.

Kết quả mỗi buổi sáng thức dậy, cả hai đều rất ngạc nhiên thấy phần thóc của mình đã được bổ sung trở lại, không hề hao hụt. Song họ không hiểu tại sao.

Đến một tối, hai người bắt gặp nhau giữa đường khi đang mang thóc đổ vào kho của nhau. Cả hai lập tức hiểu ra sự việc. Và họ cảm động ôm chầm lấy nhau.

Nhiều năm sau khi họ qua đời, câu chuyện ấy lan rộng ra. Vì thế, khi dân chúng muốn xây dựng một thánh đờng cho thị trấn, họ đã chọn đúng chỗ mà hai anh em gặp nhau tối ngày xưa ấy, để đặt móng cho thánh đường – bởi họ nghĩ rằng không thể có chỗ nào khác trong thị trấn linh thánh hơn chỗ này.

***

Vua Giêsu là vua Tình yêu. Chỉ có ai sống yêu thương mới được ở trong vương quốc của Người. Hai anh em trong câu chuyện trên đây quả xứng đáng là thần dân của Vua Giêsu Tình yêu.

Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mô tả cho các môn đệ về ngày Cánh Chung. Lúc đó, Người sẽ ngự đến trong vinh quang, có các thiên sứ theo hầu. Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển. Muôn dân sẽ quì tụ trước mặt Người, Người sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên và dê. Chiên bên phải và dê bên trái.

Thế là quá rõ, Đức Giêsu vừa là Vua vũ trụ, vừa là Thẩm phán thế gian. Người tuyển chọn các con dân của Người bằng một phương cách thật bất ngờ, đến nỗi những con chiên ngoan đạo của Người cũng không thể ngờ tới: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước, hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?” (Mt 25,37-39).

Hóa ra là, từ bấy lây nay, chúa hiện thân trong người đói khát, khách lạ, mình trần; trong kẻ đau yếu, tù đầy mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày. Tiêu chuẩn để được cấp hộ chiếu nước Trời thật đơn giản: Hãy làm những nghĩa cử yêu thương cho anh em, nhất là những người cùng khổ, vì chính Chúa đã đồng hóa mình với họ. Đức Giêsu nói: “Mỗi lần các người làm cho một người bé mọn nhất của Ta đây, là các người làm cho chính Ta” (Mt 25,40).

Người ta sẽ phải tách biệt ra, chiên hoặc là dê, người lành hay kẻ dữ, người thánh thiện hay kẻ tội lỗi. Điều đó căn cứ vào việc “Làm” hay “không làm” những nghĩa cử yêu thương cho những ai đang cần trợ giúp.

Người ta sẽ phải “ra đi chịu cực hình muôn kiếp” hay là “ra đi để hưởng sẹ sống muôn đời”, cũng chỉ dựa vào tiêu chuẩn duy nhất ấy, “làm” hay “không làm” những cử chỉ yêu thương cho những kẻ bần cùng, bất hạnh.

Nếu vua Giêsu ở trong cung vàng điện ngọc, xa rời quần chúng, thì người ta có lý dó để thoái thác không làm. Nhưng Người luôn ẩn thân trong những người nghèo hèn, khốn khổ; mà họ đông vô số kể, lúc nào cũng ở bên cạnh chúng ta, thì việc “không làm một cái gì đó” cho an hem khi họ cần đến, lại là một án phạt muôn đời cho những kẻ vô tâm, vô tình.

Nếu Vua Giêsu chỉ xét xử thần dân của Người dựa trên tình yêu, thì ai không biết động long trắc ẩn trước nỗi khổ của anh em, không dám cho đi những gì mình có để cứu giúp những kẻ khốn cùng, không dám xả thân phục vụ những con người bất hạnh, thì họ không thể nào là công dân của Nước Trời.

Chúng ta không giàu có vì những gì mình đã nhận lãnh, mà vì những gì mình đã trao ban. Cha Mark Link viết: “Khi Chúa đến, Người không cân đo trí khôn chúng ta thông minh thế nào. Nhưng Người sẽ cân đo trái tim chúng ta yêu thương ra sao”.

Nếu con tim chúng ta không đam mê tượng vàng rực rỡ, chúng ta sẽ yêu cuộc đời nhiều hơn, sẽ tha thiết sống trọn vẹn hơn cho anh em. Và cỏ cây lại xanh tươi, nắng chan hòa ấm cúng, con tim reo vui hạnh phúc.

***

Lạy Chúa,

Xin cho trái tim chúng con nồng cháy yêu thương, cho bàn tay chúng con rộng mở để trao ban, cho đôi chân chúng con đến với những người nghèo khổ. Vì chỉ có thế, chúng con mới xứng đáng là thần dân của Vua Tình Yêu, luôn mang cờ hiệu là phục vụ và yêu thương. Amen.

 

21. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc

Lễ này đã được Đức Giáo hoàng Pi-ô XI thiết lập vào năm 1935, không phải vì thế giới ngày nay đã từ chối vương quyền của Chúa, không nhằm tạo lại một cái gì đã mất, nhưng để giúp chúng ta là những người tin Chúa, nhớ đến một thực tại mà nhiều người đã bỏ quên: đó là vương quyền tuyệt đối của Chúa Ki-tô trên vạn vật, đồng thời cũng nhắc nhở mọi người nhớ đến cùng đích của cuộc sống: tất cả phải quy về một mối là Chúa Ki-tô. Không có Ngài, thế giới này sẽ là gì? Sẽ đi về đâu? Cuộc sống con người có ý nghĩa gì? Hiến chế “Giáo Hội trong thế giới ngày nay” đã nhấn mạnh đến điểm này. Chúa Ki-tô là đích điểm của mọi sự. TrongThông điệp “Đấng Cứu chuộc con người” của Đức Giáo hoàng Gioan-Phao-lô II càng nhấn mạnh hơn.

Cuộc sống con người chỉ có ý nghĩa khi nó kết thúc trong Chúa Ki-tô, trước mặt Vì Vua muôn thuở: “Ngài phải là Đầu và là Cuối cùng của mọi sự (Anpha và ô-mê-ga), là Đấng mà mọi sự có tự Ngài, là đường, là sự thật và là sự sống” của mọi người. Ngài là Đấng Cứu chuộc con người (Thông điệp Đấng cứu chuộc con người, số 17).

Thánh Mat-thêu đã trình bày Chúa Giêsu như một vị Vua, không phải như vua trần thế, mà là Vua của mọi loài, Vua tuyệt đối: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên thần theo hầu, bấy giờ Người sẽ lên ngai vinh hiển của Người”.

Chúng ta không thể nào so sánh vinh quang của một vị vua trần thế với vinh quang của Đấng đã Phục sinh.

Các vua trần thế chỉ như một ngọn đèn cháy một lúc rồi lụi tắt. Chúa Giêsu mới là Vua, vì vương quyền của Ngài không bắt đầu trong thời gian, Ngài là Vua tự muôn thuở: “Ngay trước lúc hừng đông xuất hiện, tự lòng Cha, Cha đã sinh ra Con”. “Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân Con”. (Tv 110).

Nhưng Vua Giêsu của chúng ta là một Thiên Chúa nhập thể, đã sống trọn kiếp người, đã chết và đã sống lại. Ngài sống lại để trở nên “Chúa của kẻ chết và của kẻ sống” (thơ gởi giáo đoàn Cô-lô-sê). Vương quyền của Ngài vượt mọi ranh giới. Thánh Gioan, trong sách Khải Huyền đã nhìn thấy Ngài đầy vẻ uy nghi, sáng chói: “Ta đã chết và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời! Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ” (Kh 1,18). Thánh Gioan viết tiếp: “Thấy Ngài, tôi ngã vật xuống dưới chân Ngài như chết vậy”.

Bức tranh hoành tráng của Gioan diễn tả phần nào quyền uy tối thượng của Đấng đã toàn thắng sự chết. Ai có thể đọc hết sách Khải huyền mới có thể hình dung được nét oai phong thần linh của Chúa Giêsu… Đức Vua muôn thuở mà Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm.

Ngài là Thiên Chúa, là Ngôi Lời Thiên Chúa. Trước mặt Ngài, chúng ta chỉ có thể có một thái độ là tôn thờ. Và tôn thờ chính là nhìn nhận quyền tuyệt đối của Ngài trên chúng ta, quyền xét xử và thưởng phạt. Thực sự, chúng ta có nhìn nhận điều đó không? Tôn thờ chính là thi hành thánh ý của Ngài chứ không chỉ sống theo ước muốn của chúng ta. Tôn thờ chính là chỉ yêu một mình Ngài trên hết mọi sự… Đạo Công giáo không phải là một ách nô lệ, mà là một tình yêu trọn vẹn.

Dụ ngôn cũng cho chúng ta thấy: “Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Ngài”.

Vua chúa trần gian chỉ có quyền trên một số người và trong một thời gian hạn định. Vua Giêsu nắm quyền trên toàn thể muôn dân, từ người thứ nhất là A-đam đến người cuối cùng trong thế giới. Chúng ta không thể hình dung được quyền uy cao cả của Ngài, vì chúng ta quá bé nhỏ, một hạt cát…. Chúng ta sẽ đến trước mặt Ngài và Ngài sẽ xét xử mọi người, không trừ ai. Vương quyền của Ngài là tuyệt đối. Lúc bấy giờ chúng ta mới biết, chúng ta sẽ như thế nào.

“Ngài tách chiên ra khỏi dê”, tức là những người lành và những người tội lỗi không còn lẫn lộn như ở trần gian. “Lúa tốt không còn lẫn với cỏ lùng nữa”. Giờ đó không còn thay đổi. Đó là giờ quyết định.

Vua ngỏ lời với những người lành, và lời Ngài gây ngạc nhiên. Ngài nêu rõ tại sao họ được ân thưởng: “Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói… các ngươi đã cho ăn…”

Ngài không hỏi họ đã sáng chế ra bao nhiêu máy móc tinh vi, cũng không hỏi đã xây bao nhiêu lâu đài dinh thự, sản xuất bao nhiêu đạn hạt nhân, đã chứa bao nhiêu tỷ bạc. Ngài chỉ hỏi họ có yêu thương giúp đỡ Ngài không? Vì Ngài đói rách, bệnh hoạn, khốn khổ…

Ngạc nhiên, ngỡ ngàng! “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn…đâu!” Đúng thế, chúng ta có bao giờ thấy Chúa đâu! Chúng ta chỉ thấy người nghèo, người khổ thôi, nhưng Đức Vua sẽ trả lời: “Ta đói trong những người đói, Ta đau khổ trong những người đau khổ”.

Thánh Phao-lô đã nghe tiếng Chúa gọi trên đường Đa-mas: “Sao-lê, Sao-lê, sao ngươi bắt bớ Ta?” Sao-lê trả lời: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Và câu trả lời vọng lại: “Ta là Giêsu ngươi đang bắt bớ”. Ta là Giêsu chứ không phải là môn đệ. Ngươi đang bắt bớ Ta chứ không phải môn đệ của Ta. Bao nhiêu lần chúng ta đã đọc, đã nghe câu nói này, chúng ta có ý thức được gì không? Chúa nói với Phao-lô, hôm nay Chúa cũng nói với chúng ta như thế, nhưng… chúng ta vẫn phớt lờ như không hay biết. Chúng ta muốn đứng bên phải, trong số chiên ngoan, nhưng thực sự, chúng ta không xứng đáng, chúng ta thấy Chúa đói mà không cho ăn… Chúng ta ngại phải móc túi, ngại cho… Chúng ta lo xa, chúng ta sợ mất mát, chúng ta sợ người ta lợi dụng…Chúng ta chưa nhìn thấy Chúa trong anh em khốn khổ… Chúng ta chỉ muốn sướng một mình, vui hưởng một mình, còn anh em… “sống chết mặc bây”.

Chúng ta chọn vua nào? Vua Giêsu? Nếu chọn Vua Giêsu, Ngài đang ở giữa chúng ta, Ngài là những đứa trẻ không ai thương đến, những người neo đơn, bệnh hoạn…

Vui mừng biết bao khi chúng ta khám phá ra Chúa Giêsu trong những người anh em khốn khổ! Hãy mở rộng tâm hồn để nhìn thấy điều kỳ diệu là Vua Giêsu chúng ta đang nghèo đói trong anh em… đang cần đến sự giúp đỡ ân cần của chúng ta. Hãy nhớ rằng “trong ngày sau hết, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu” (thánh Gioan Thánh Giá). Có lẽ chúng ta không thể làm hết mọi sự, giúp đỡ hết mọi người, nhưng chúng ta có làm hết khả năng để nâng đỡ những người anh em xấu số của chúng ta không?

Chúng ta lãnh nhận nhiều hơn anh em, không phải để chúng ta vui chơi phung phí, nhưng để chia sẻ. Chúng ta chỉ là “những người quản lý những ân huệ thiên hình vạn trạng của Chúa”, chúng ta không có quyền vui hưởng một mình…

Thánh Phan-xi-cô At-xi-di là một trong những khuôn mặt quen thuộc đã nhìn thấy Chúa Giêsu trong những người cùi… đã yêu thương phục vụ họ. Mẹ Tê-rê-xa Calcutta cũng thế. Đối với Mẹ, những người khốn cùng nhất trong xã hội, những người bị bỏ rơi… là những Chúa Giêsu cần được yêu thương. Tại sao chúng ta không thể nhìn thấy Chúa trong anh em khốn khổ? Chúng ta mù quáng đến mức độ nào? Hãy xin Chúa cho chúng ta một tâm hồn nhạy cảm trước những người anh em đang khốn khổ.

Vua Giêsu của chúng ta không đến với chúng ta bằng dáng vẻ oai phong như các vua trần gian, nhưng Ngài khiêm tốn đến với chúng ta nơi bàn thờ trong hình thức hết sức nhỏ bé để chúng ta gần gũi với Ngài hơn. Sau khi lãnh nhận Ngài, chúng ta có thể nhận ra Ngài rõ rệt hơn nơi anh em, và yêu mến Ngài trong anh em chúng ta hơn.

 

22. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Chúa nhật 34 là Chúa nhật lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, đồng thời cũng là Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng Vụ. Giáo hội hướng chúng ta về ngày chung cuộc của con người và toàn thể vũ trụ. Đó chính là ngày Tận thế. Trong ngày đó, mỗi người sẽ phải đối diện với cuộc phán xét chung do chính Vua Giêsu làm Thẩm Phán.

Bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, Thánh Mathêu cho chúng ta thấy quang cảnh của ngày phán xét chung đó. Đức Giêsu sẽ ngự đến trong vinh quang và chung quanh Người có các Thiên thần hậu cận. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải, còn dê ở bên trái: chiên là những người lành thì được thưởng trên Thiên đàng, còn dê là kẻ dữ sẽ bị phạt xuống Hỏa ngục (x. Mt 25,31).

Để đón chờ ngày Tận thế, ngày vị Thẩm Phán Giêsu ngự đến, chúng ta cần phải xác tín và thực hành những điều sau đây:

Thứ nhất, chúng ta luôn phải xác tín rằng có ngày Tận thế: Vấn đề này chúng ta đã tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Và Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Đức Giêsu cũng nói về ngày Tận thế rằng: “Và cũng như thời ông Nô-ê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong ngày của Con Người cũng sẽ xảy ra như vậy.” (Lc 17,26). Người cũng nói với các Tông đồ: Thầy đi để dọn chỗ cho anh em và Thầy lại đến để đem anh em về với Thầy (x. Ga 14, 2-3). Tin mừng Thánh Mathêu hôm nay cũng cho biết: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái.”(Mt 25,31). Như vậy, có ngày Tận Thế, nhưng ngày đó đến lúc nào thì chúng ta không biết được. Chúng ta cần phải xác tín như vậy.

Thứ hai, vào ngày Tận thế, Đức Giêsu là vị Thẩm Phán sẽ xét xử toàn thể nhân loại: Thánh Phaolô khẳng định: “Tất cả chúng ta đều phải được đưa ra ánh sáng, trước tòa Đức Ki-tô, để mỗi người lãnh nhận những gì tương xứng với các việc tốt hay xấu đã làm, khi còn ở trong thân xác” (2 Cr 5:10). Về vấn đề này, Đức Giêsu cũng đã nói rõ ràng qua dụ ngôn những nén bạc (x. Mt 25,14-30). Qua dụ ngôn này, ông chủ chính là Đức Giêsu. Cuộc hành trình ông chủ đi xa chỉ việc Người về với Chúa Cha. Các đầy tớ là những người tin vào Đức Giêsu. Những nén bạc được trao cho các đầy tớ là những khả năng Chúa ban. Những nén bạc được các đầy tớ sinh lãi là những việc tốt chúng ta đã làm khi tận dụng các khả năng của mình. Sự trở về của ông chủ là việc Đức Giê-su trở lại trong ngày Tận thế. Khi đó, ông chủ tức là Đức Giêsu sẽ phán xét con người tùy theo công nghiệp của họ. Đầy tớ thứ nhất và thứ hai là hiện thân của những người được thưởng. Còn đầy tớ thứ ba là hiện thân của những người bị phạt. Như vậy, mỗi người chúng ta luôn phải nhớ rằng, vào ngày Tận thế, Đức Giêsu là vị Thẩm Phán sẽ xét xử chúng ta theo nguyên tắc: “Hữu công tắc thưởng, hữu tội tắc trừng”: Có công thì được thưởng, có tội thì bị phạt. Nhờ đó, chúng ta luôn cố gắng làm lành lánh dữ.

Thứ ba, tiêu chuẩn để được thưởng và lý do bị phạt là luật bác ái: Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đồng hòa Người với những kẻ bé mọn. Nên những ai giúp đỡ những kẻ bé mọn là giúp đỡ chính Người. Vì thế, Người nói với những kẻ lành rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm… những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta.” (Mt 25,34-36.40). Ngược lại, Người nói với những kẻ dữ rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!… Mỗi lần các ngươi đã không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy.”(Mt 25,41-43.45). Tóm lại, tiêu chuẩn để Đức Giêsu phán xét là luật bác ái yêu thương.

Thứ tư, chúng ta phải làm gì để đón chờ ngày Tận thế? Có ngày Tận Thế và ngày đó đến một cách bất ngờ như kẻ trộm (x. 2 Pr 3,10). Vì thế, chúng ta phải siêng năng làm việc để sinh lãi những vốn liếng Chúa trao như người đầy tớ thứ nhất và thứ hai trong dụ ngôn những nén bạc (x. Mt 25,14-30). Chúng ta phải có thái độ như người đầy tớ tỉnh thức đợi chủ đi ăn cưới về hay như chủ nhà tỉnh thức để canh chừng kẻ trộm (x. Lc 12, 35-40). Chúng ta phải chuẩn bị dầu đèn đầy đủ như năm cô trinh nữ khôn ngoan (x. Mt 25,1-13). Đặc biệt, mỗi người chúng ta hãy cố gắng thực thi bác ái yêu thương, vì đó là tiêu chuẩn để chúng ta được vào Thiên đàng. Trong bài giảng “ngày quốc tế người nghèo lần thứ nhất” tại Vatican, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng khẳng định rằng: “Người nghèo là thông hành vào cửa Thiên đàng của chúng ta.” Và Ngài nhắn nhủ mọi người: “Thiên Chúa ban cho chúng ta các nén bạc, các khả năng, cần phải tận dụng và phát triển để mưu ích cho tha nhân, nhất là cho người nghèo… Yêu thương người nghèo như thế có nghĩa là chiến đấu chống lại mọi thứ nghèo đói tinh thần cũng như vật chất.”

Lạy Chúa Giêsu là Vua Tình Thương, xin cho mỗi người chúng con luôn biết sống đức ái trong cuộc sống hằng ngày để mai sau chúng con có được giấy thông hành vào nước Thiên đàng với Chúa. Amen.

 

23. Giờ thưởng phạt

Thế giới loài người có khởi đầu và có kết thúc. Chúa Giêsu đã báo trước sẽ có ngày tận cùng thời gian, đó là lúc người lành, kẻ dữ biết rõ số phận của mình. Trong ngày cuối cùng đó, Đức Giêsu chịu đóng đinh sẽ hiện đến trong uy nghi vinh hiển, là Vua xét xử thế gian. Lúc đó, tôi sẽ đứng trong nhóm nào, bên phải hay bên trái của Chúa? Tôi phải làm sao để được Chúa Cha phúc, được Chúa Giêsu tha thứ mọi lỗi lầm dương thế và cho nhập vào hàng ngũ các thánh.

Xưa kia khi Chúa Giêsu xuống trần, Ngài không dùng quyền để xử án thế gian nhưng để tỏ lòng thương xót với những người tội lỗi và cứu độ họ (x. Ga 3,17), nhưng đến ngày phán xét, Chúa Giêsu sẽ ngự đến trong uy nghi sáng láng và thưởng phạt công minh. Hiện nay, Ngài tự đồng hoá mình với những kẻ bé mọn để chúng ta có cơ hội phụng sự Ngài nơi đồng loại. Khi chúng ta tiếp nhận những kẻ bé mọn vì danh Chúa tức là đón nhận Chúa và mai sau Ngài sẽ ban thưởng cho chúng ta. Những kẻ đáng thương là đối tượng tình thương của Chúa. Vì vậy, khi ta giúp đỡ những kẻ đáng thương là chúng ta thể hiện tình thương của Chúa đối với con người. Ngược lại, những kẻ dữ vì không thi hành việc bác ái cụ thể đối với những người đáng thương nên đã cản trở tình thương yêu của Chúa đối với con người và vì vậy là một trọng tội đáng vào lửa muôn đời.

Trong ngày phán xét, những người đã thông phần đau khổ vì Đức Giêsu, đã làm chứng cho chân lý và sống vì hạnh phúc của tha nhân sẽ được vinh thắng, được ở cùng với Vua Giêsu rất đáng mến và hưởng vinh phúc với Ngài. Những kẻ dữ, không biết xót thương ai nên phải bị trầm luân khốn khổ, phải lui ra khỏi mặt Chúa đời đời! Đó là hình phạt lớn nhất cho họ.

Hiện nay, sự dữ còn đang hoành hành trong thế giới, cỏ lùng còn lẫn lộn với lúa, người ác sống chung với người lành và còn coi thường việc thưởng phạt, nhưng đến ngày tận thế, họ sẽ biết rõ quyền năng và sự công thẳng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, đối với người lành, Chúa sẽ đối xử nhân từ và cho vào hưởng hạnh phúc đời đời.

Chúng ta biết mình sẽ có ngày ra trước toà Chúa. Vậy, chúng ta hãy lo làm tròn bổn phận của mình, làm nhiều việc lành và dâng những hy sinh hàng ngày cho Chúa để được chúa xót thương. Số phận của chúng ta không phải được quyết định vào ngày tận thế nhưng tuỳ thuộc vào thái độ sống của chúng ta ngay từ hôm nay trong cuộc đời dương thế. Xưa ta cho kẻ đói thì nay Chúa cũng cho chúng ta được no nê, xưa ta tốt bụng với anh em thì nay Chúa cũng sẽ tỏ lòng nhân hậu với chúng ta. Chúng ta đong đấu nào cho anh em thì Chúa cũng sẽ đong lại bằng đấu ấy cho chúng ta mà đong dư tràn nữa. (x. Mt 7,2)

Vào ngày phán xét, Chúa sẽ hỏi mỗi người chúng ta về đời sống đạo (x. Ga 18, 37), về lòng hối cải (x. Mt 12, 41), về việc đón tiếp các đại diện của Chúa (x. Mt 10, 41). Những việc bác ái hy sinh vì Chúa là những hoa trái của đời sống Tin Cậy Mến, là những của lễ đẹp lòng Chúa hơn hết. Do đó, ngay từ bây giờ, chúng ta hãy chỉnh đốn lại cách đối xử của ta đối với tha nhân, nhất là những kẻ đang cần ta giúp đỡ vật chất cũng như tinh thần, mỗi người chúng ta hãy sống thật đúng với lời Chúa dạy, lo làm các việc lành phúc đức và trung thành giữ giới răn Chúa cho đến cùng.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con yêu mến Chúa. Chúa rất muốn chúng con hạnh phúc nên đã đến cứu chuộc chúng con. Chúa đã tự đồng hoá mình với những kẻ bé mọn và muốn chúng con yêu thương Chúa qua những người nghèo hèn khốn khổ. Chúng con sẽ cố gắng lo giúp đỡ những người bé mọn, tích cực cộng tác với xã hội trong việc giúp đỡ tha nhân nhất là những người trong hoàn cảnh khổ đau, thiếu thốn để xã hội ngày càng tốt đẹp và mọi người nhận ra Chúa đang hiện diện đặc biệt nơi các môn đệ của Người.

 

24. Sự phán xét – Lm. Mark Link, SJ

Cuộc đời của tài tử Martin Sheen giống như truyện phim Hollywood. Ông lớn lên trong gia đình nghèo ở Dayton, Ohio. Là một trong mười người con, cha ông là người di dân Tây Ban Nha và mẹ ông là người Ái Nhĩ Lan.

Ông nói, điều ảnh hưởng đến ông nhiều nhất trong thời niên thiếu là sự nhân từ của các nữ tu, các chị dạy học. Các chị thực sự sống đức tin mà họ tuyên xưng.

Dần dà, Martin đi vào ngành kịch nghệ, đến lập nghiệp ở Hollywood, và trở nên một siêu sao hàng đầu, thủ diễn các vai trong các phim ăn khách như Gandhi và Apocalypse Now.

Cũng như sự thành công đến với đời ông, vật chất chủ nghĩa cũng theo sau. Ông kiếm thật nhiều tiền và vui hưởng tất cả những gì đồng tiền có thể mua được. Điều đó kéo dài trong 16 năm.

Và rồi quay phim Gandhi ở Ấn Độ. Một ngày kia ông ngồi trên xe taxi, có mấy đứa trẻ bám theo xe, đong đưa ở bên cạnh.

Khi ông nhìn vào khuôn mặt chúng đang cười toe toét sau tấm kính xe, ông thấy răng chúng không còn, quần áo thì rách rưới, và tóc đầy chí rận. Ông nói:

Bỗng dưng tôi biết mình phải làm gì. Tôi bảo tài xế ngừng xe lại và đưa bọn trẻ vào trong xe.

Sự nghèo nàn, khốn khổ, và tuyệt vọng của bọn trẻ đã đưa ông trở về thời niên thiếu.

Tình tiết đó đã khiến ông nhớ lại những gì ông học khi còn nhỏ trong một trường Công Giáo và một gia đình Công Giáo: tất cả chúng ta đều là thân thể của Đức Kitô.

Và rồi một tình tiết thứ hai khiến ông suy nghĩ sâu xa hơn nữa. Khi quay cuốn phim Apocalypse Now ở Phi Luật Tân, ông bị một cơn đau tim.

Nhận xét về ảnh hưởng của biến cố đối với sự suy nghĩ của ông, trong một cuộc phỏng vấn ông nói, người diễn viên trong Apocalypse Now đã chết và đã được chôn ở Phi Luật Tân. Người diễn viên mà quý vị đang nói chuyện bây giờ thì không giống như người đã đóng cuốn phim đó.

Ông phải mất thêm bốn năm nữa để tái gia nhập Hội Thánh Công Giáo. Khi thực hiện điều đó, sự mạnh mẽ và tận tuỵ của ông với đức tin chỉ có thể diễn tả là lạ lùng.

Ông nói, ông vẫn hút thuốc và đánh bài và thích sự thoải mái, thích xe hơi, và vinh dự. Nhưng ông biết ông phải tìm cách từ bỏ.

Ông nói, chúng ta sống ở trái đất này không phải là tình cờ. Đức Kitô dạy chúng ta phải yêu thương tha nhân như chính mình. Và hãy nhìn xem tôi đã đối xử với tha nhân như thế nào, so với cách tôi đối xử với chính tôi!

Thiên Chúa không muốn tôi sống xa hoa trong khi hai phần ba dân số trên thế giới sống trong nghèo đói. Người Hoa Kỳ chúng tôi chiếm ít hơn 10 phần trăm dân số thế giới, nhưng chúng tôi sử dụng đến 50 phần trăm tài nguyên thế giới.

Một số người phải sống cực khổ để chúng tôi sống sung sướng. Họ phải mang gánh nặng của lối sống chúng tôi trên vai họ.

Ông Sheen nói rằng vợ ông có công giúp ông nghiêm trọng suy nghĩ đến sự kiện là ông sẽ bị phán xét sau khi chết, không chỉ những gì ông làm, nhưng còn những gì ông không làm. Bà ta nói với ông, Hãy nhìn đến người đói khát. Hãy nhìn đến người trần truồng. Hãy nhìn đến người vô gia cư. Chúng ta phải làm gì đó cho họ.

Điều này đưa chúng ta chú ý đến mỗi người ở đây. Làm thế nào chúng ta áp dụng bài Phúc Âm hôm nay và kinh nghiệm hoán cải của ông Sheen vào chính đời sống chúng ta? Chúng ta có thể bắt đầu theo phương cách này.

Khi chúng ta được rửa tội, vị linh mục xức dầu cho chúng ta. Chúng ta được mang tên – “Kitô Hữu” – chữ này xuất phát từ chữ Kitô, có nghĩa “người được xức dầu.”

Qua sự xức dầu chúng ta được trao cho ba sứ vụ của Đức Kitô là ngôn sứ, tư tế, và vua.

Nhiệm vụ ngôn sứ thêm sức mạnh để chúng ta làm chứng cho Phúc Âm.

Nhiệm vụ tư tế thêm sức mạnh để chúng ta cùng với Đức Kitô dâng hiến chính mình cho Chúa Cha trong Thánh Lễ.

Nhiệm vụ vua thêm sức mạnh để chúng ta hoạt động cho Vương Quốc Thiên Chúa được phát triển ở trần gian.

Và như thế chúng ta có thể thực hiện điều này. Bởi vì sự chết và sự phục sinh, Đức Kitô không còn sống ở thế gian trong một thân xác bằng xương thịt.

Người không còn dạy dỗ, yêu mến, và chữa lành cho dân chúng với chính đôi tay, đôi chân, và con tim của Người – như đã thi hành cách đây 2,000 năm.

Nếu các người hèn mọn của Chúa Kitô muốn cảm nghiệm được sự tiếp xúc đầy yêu thương của Người, với đôi tay chữa lành của Người, và lời tha thứ của Người, điều đó phải được xảy ra qua chúng ta.

Điều này có nghĩa Vương Quốc Thiên Chúa, mà Người đã khởi sự trên trái đất, phải được tiếp tục và phát triển bởi chúng ta. Đây là ý nghĩa của ngày lễ Kitô Vua.

Đó là sự tán dương vương vị của Đức Kitô bằng cách thi hành vương vị của chúng ta mà Người đã chia sẻ cho chúng ta khi nhận lãnh bí tích Rửa Tội.

Các bài đọc hôm nay kết thúc một niên lịch phụng vụ của Hội Thánh. Và trong tất cả những bài đọc của năm, chỉ một vài bài mang ý nghĩa quan trọng.

Vì các bài đọc hôm nay đem lại một ý nghĩa mà đã ảnh hưởng đến Martin Sheen cách sâu đậm, có thể nói, là chúng ta sẽ bị phán xét sau khi chết bởi cách chúng ta thi hành ba sứ vụ mà chúng ta đã được lãnh nhận trong bí tích rửa tội.

Chúng ta sẽ bị phán xét về cách chúng ta phục vụ Vua Kitô, nhất là trong những người bé mọn của Người.

Chúng ta hãy kết thúc với những dòng từ bài thơ của Brewer Mattocks. Bài thơ viết:

Cha sở của Austerity leo lên một tháp cao nhà thờ để có thể gần Chúa, như vậy ông có thể nghe và đưa lời Chúa xuống cho dân chúng ở dưới.

Một ngày kia, có tiếng nói thật xa xăm. Đó là tiếng nói của Thiên Chúa – là tiếng nói mà vị linh mục này chờ đợi đã lâu.

Vì thế ông leo lên cao hơn nữa, cho đến tận đỉnh tháp, và lớn tiếng nói vào khoảng không gian: “Chúa ơi, Ngài ở đâu?” Và Chúa trả lời “Ở dưới này trong đám dân chúng.”

 

25. Đối diện trước tòa phán xét

(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)

Giáo hội thiết lập lễ Chúa Kitô, vua vũ trụ vào cuối năm phụng vụ có ý chỉ cho người Kitô giáo thấy, không những Chúa là khởi nguyên của mọi loài, mọi vật, mà còn là cùng đích của mọi sự.

Đó chính là lời Chúa mạc khải cho thánh Gioan trong sách Khải huyền: Ta là Alpha và là Omêga (Kh 21:6 & Kh 22:13) có nghĩa là Chúa là nguyên thuỷ và là cùng đích của mọi loài, mọi sự, mọi vật. Cũng theo sách Khải huyền thì Chúa Kitô là Chúa trên các chúa, là Vua trên các vua (Kh 17:14) vì Người đã toàn thắng sự chết. Tất cả các vua chúa đều phải khuất phục thần chết, chứ không ai có thể tự mình sống lại. Còn Đức Kitô-Vua đã tự chấp nhận cái chết và sau ba ngày đã toàn thắng sự chết bằng việc phục sinh khải hoàn.

Chính vì thế mà thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Corintô hôm nay đã rao giảng vương quyền của Đức Kitô: Đức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc (1Cr 15:20). Cũng vì chấp nhận vương quyền của Chúa là Vua các vua, là Chúa các chúa, mà các vị anh hùng tử đạo đã sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho đức tin.

Trong kinh Tin kính, người tín hữu tuyên xưng cùng với Giáo Hội: Người sẽ đến phán xét kẻ sống và kẻ chết. Trong ngày phán xét, Chúa Kitô hiện ra như là Vua và là thẩm phán tối cao. Với tư cách là Vua, Chúa phải cai trị cho tới khi Thiên Chúa đặt mọi kẻ thù dưới chân như thánh Phaolô nhắc lại trong thư gửi tín hữu Corintô hôm nay (1Cr 15:25). Với tư cách là Thẩm phán tối cao, Đức Kitô sẽ tách biệt chiên ra khỏi dê (Mt 25:32). Chiên và dê được nuôi cho ăn trong cùng một đồng cỏ. Đêm đến người ta cho chiên và dê vào chuồng tách biệt và người ta cũng tách biệt khi đem chiên và dê ra chợ bán.

Vương quốc của Chúa Kitô được thể hiện rõ rệt nhất qua hình ảnh người chăn chiên. Theo bài trích sách ngôn sứ Êdêkien hôm nay thì vị ngôn sứ đã than trách những hành động bê trễ của các tư tế và vua xứ Giuđa trong việc săn sóc đàn chiên là dân Chúa chọn. Và rồi ngôn sứ Êdêkien tiên báo là Chúa sẽ đích thân đến đưa dẫn đàn chiên lạc trở về: Ta sẽ đích thân săn sóc chiên Ta và Ta sẽ kiểm soát chúng. Như người mục tử kiểm soát đàn chiên trong ngày chúng bị tản mát, thì Ta cũng kiểm soát đàn chiên của Ta như vậy (Ed 34:11-12).

Khi mặc lấy thân xác loài người, sống giữa nhân loại, Đức Kitô đã nêu gương phục vụ loài người bằng cách rửa chân cho các môn đệ và căn dặn họ cũng phải rửa chân lẫn cho nhau, nghĩa là phục vu lẫn nhau. Đức tin của người công giáo vào ngày thế mạt hay ngày phán xét là dựa vào Thánh kinh. Thánh kinh Cựu ước cũng như Thánh kinh Tân ước đều nói về ngày phán xét. Và tiêu chuẩn cho ngày phán xét là việc bác ái phục vụ. Để cho phù hợp với lời Người giảng dạy, Đức Kitô trong Phúc âm hôm nay đồng hoá với loài người khi Người phán: Bất cứ việc gì các con làm cho một trong những người hèn mọn nhất là các con làm cho chính Ta (Mt 25:40).

Như vậy Phúc âm cho thấy thành phần trong nước Trời mang theo trách nhiệm săn sóc, phục vụ giúp đỡ tha nhân như chính Chúa đã phục vụ. Đức Kitô cho thấy ngoài mối liên hệ hàng dọc giữa thần linh và nhân loại, nghĩa là giữa Thiên Chúa và loài người, thì còn một liên hệ hàng ngang giữa người với người. Loài người là tuyệt tác phẩm của Thiên Chúa vì loài người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1:26-27; 9:6) và được máu Con Thiên Chúa đổ ra để cứu chuộc (Dt 9:12). Vậy một trong những điều kiện để gia nhập vương quốc của Đức Kitô-Vua là dựa trên việc bác ái phục vụ như: Con Người đã đến, không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ (Mt 20:28). Về Trời rồi, thì Chúa cần dùng trái tim của ta để thoa dịu những nỗi thống khổ của loài người. Chúa cần dùng tay ta để nuôi dưỡng người đói khát, băng bó những vết thương người bệnh tật. Và Chúa cần dùng chân ta để đi thăm viếng người tù đầy và đau yếu...

Theo lời Chúa dạy thì trong ngày cánh chung, người ta sẽ phải chịu phán xét về trách nhiệm của mình đối với người lầm than xấu số. Cực hình sẽ được dành cho người không chịu phục vụ những người kém may mắn. Đó là hình phạt mà người phú hộ đã phải gánh chịu vì khi còn sống không chịu giúp đỡ người nghèo đói là Ladarô (Lc 16:19-31). Người phú hộ bị kết án, không phải vì ông ta giầu có, nhưng vì ích kỉ, không chịu chia sẻ. Giáo lý Công giáo cũng dạy: Sự phán xét sau cùng này sẽ phơi bầy tất cả những hậu quả tối hậu của những gì mà mỗi người đã làm tốt, hoặc đã bỏ qua không làm trong cuộc đời trần gian của mình (GLCG # 1039). Có lẽ từ trước đến nay khi đi xưng tội, ta chỉ có thói quen xưng thú những tội lỗi ta đã phạm. Để nhắc nhở cho mình về giáo lí Chúa dạy, khi đi xưng tội, ta cũng cần xưng những tội mà mình bỏ qua, không làm cho người khác. Đó là tội thiếu trách nhiệm liên đới với người lầm than, khổ cực.

Lời cầu nguyện xin cho được phán xét khoan dung:

Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng loài người giống hình ảnh Chúa

và cứu chuộc loài người bằng máu Đức Kitô.

Xin dạy con biết nhận ra sự hiện diện của Chúa

nơi người đói khát, vô gia cư, rách rưới, đau yếu, tù đầy.

Xin tha thứ những lần con bịt tai nhắm mắt

trước những nỗi thống khổ và rên xiết của người lầm than,

bất hạnh vì tính íck kỉ và lười biếng của con.

Xin ban cho con một trái tim biết rung cảm

để con sẵn sàng đáp ứng nhu cầu loài người. Amen.

 

26. Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng

CHÚA VẪN CHO NGƯỜI BÉ MỌN SỰ HIỂU BIẾT VỀ MẦU NHIỆM NƯỚC TRỜI

Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay là một trong những lời lẽ an ủi và khích lệ nhất trong Thánh kinh. Chúa Giêsu tạ ơn Thiên Chúa Cha đã ban cho những người bé mọn sự hiểu biết về màu nhiệm nước Trời. Còn những người khôn ngoan thông thái lại không lãnh hội được. Điều được tiết lộ cho những người này thì lại bị giấu kín khỏi những người khác. Vậy đâu là sự khác biệt và tại sao có sự khác biệt? Việc Thiên Chúa bày tỏ cho loài người qua Thánh kinh là kho tàng chung của nhân loại, nghĩa là ai cũng có thể mua cuốn Thánh kinh để đọc, nếu có tiền.

Tuy nhiên chỉ có những người mở rộng tâm hồn, chỉ có những người khiêm tốn trước Đấng tối cao, mới có thể lãnh hội được lời Chúa. Đó chính là ý nghĩa lời Chúa phán trong Phúc âm hôm nay: Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan và thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn (Mt 11:25). Chẳng thế mà văn hào Pascal mới nói: Thiên Chúa của Ápraham, Ixaác và Giacóp, không phải là Thiên Chúa của các triết gia và những nhà thông thái. Pascal là nhà toán học, vật lý học và triết học mà đã nói lên điều đó.

Vậy có phải Thiên Chúa giấu, không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời không? Nếu Chúa xử với bậc khôn ngoan và thông thái như vậy thì có vẻ Chúa không công bình với họ vì chính Chúa đã tạo dựng nên người khôn ngoan và thông thái. Và nếu như vậy thì kể là cũng tội nghiệp cho họ. Thực sự thì Thiên Chúa bầy tỏ cho tất cả mọi người về màu nhiệm nước Trời, nhưng chỉ có những người khiêm tốn và mở rộng tâm hồn mới lãnh hội được mà thôi. Những người khôn ngoan và thông thái mà cậy mình kiêu ngạo thường không muốn tuỳ thuộc vào Chúa. Và khi người ta không muốn tuỳ thuộc vào Chúa là chính lúc mà mầu nhiệm nước Trời bị cất giấu khỏi họ. Khi mà tâm trí người ta đầy ắp những thứ mà người ta cho là của mình, thì những gì thuộc thiên giới không còn chỗ mà vào. Còn những người khôn ngoan và thông thái mà có lòng khiêm tốn và mở rộng tâm hồn thì vẫn có thể tìm đến Chúa để tiếp nhận màu nhiệm nước Trời. Họ là những người to lớn về trí tuệ, mà lại bé mọn về tâm hồn. Bé mọn theo nghĩa Thánh Kinh là đơn sơ, khiêm tốn, tuỳ thuộc và phó thác vào Chúa.

Để có thể đến với Chúa và đặt niềm tin phó thác vào Người như trẻ con phó thác vào cha mẹ, người ta cần có những đức tính của trẻ nhỏ: đơn sơ, khiêm tốn, tuỳ thuộc và phó thác. Khi lớn lên với những của cải giàu sang, sự hiểu biết sâu rộng và quyền hành, người ta có thể bớt tùy thuộc vào Chúa hay không còn muốn tuỳ thuộc vào Chúa hoặc vẫn muốn tuỳ thuộc vào Chúa tuỳ theo mức độ người ta gắn bó với của cải, quyền thế hoặc tài trí. Đặc biệt hôm nay Chúa mời gọi loài người: Hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11:28).

Có khi nào ta cảm thấy vất vả vì công việc bổn phận trong gia đình và trách nhiệm ngoài xã hội, khiến ta muốn thoát khỏi những gánh nặng của cuộc sống không? Có khi nào ta phải mang những gánh nặng của cuộc đời như bệnh tật nan trị trong thân xác hoặc những vết thương về tinh thần và tình cảm khiến tâm can ta bị hao mòn, héo hắt không? Có bao giờ ta gặp cảnh khổ đau, sầu não, phiền muộn, âu lo, sợ hãi, chán nản, thất vọng không? Có khi nào người khác thấy ta có vẻ hạnh phúc, nhưng thực sự ta đang phải mang tủi hổ về bản thân và gia đình, ta phải ngậm đắng, nuốt cay và khóc thầm trong lòng không? Có khi nào ta không có ai hoặc không tìm được ai để thổ lộ nỗi lòng cho vơi nhẹ, vì sợ không được lắng nghe và không được giữ kín không?

Nếu vậy thì hôm nay Chúa mời gọi ta đến với Chúa để bày tỏ nỗi lòng với Chúa, để trút gánh nặng của cuộc sống vào lòng từ ái của Chúa, để hoà lẫn những đau khổ của đời ta với những khổ đau của Chúa trên thập giá mà dâng lên Thiên Chúa Cha, hầu làm giá đền tội cho chính mình và cho loài người. Chúa không hứa cất đi những gánh nặng khỏi cuộc sống của ta, nhưng còn mời gọi ta mang lấy ách của Người: Hãy mang lấy ách của tôi và học với tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng (Mt 11:29). Vậy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhượng như thế nào? Lời Chúa trong sách ngôn sứ Dacaria có mô tả về Đấng Cứu thế sẽ đến như sau: Khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ (Drc 9:9). Lừa là con vật hiền lành và dễ chịu khuất phục. Khi vào thành Giêrusalem trong ngày lễ Lá, Chúa Giêsu đã thể hiện lời tiên tri về Người mà cưỡi trên lưng lừa con (Mt 21:7), chứ không cưỡi trên lưng ngựa mặc dầu có ngựa ở Giêrusalem thời bấy giờ. Điều đó nói lên ý muốn của Người là sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha, chấp nhận khổ hình thập giá, để làm giá cứu chuộc loài người.

Và Chúa bảo đảm với ta: Ách của tôi thì êm ái, gánh của tôi thì nhẹ nhàng (Mt 11:30). Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Roma nêu lý do tại sao ách ta vác không được êm ái, và gánh ta mang không được nhẹ nhàng là vì ta không sống theo Thần Khí của Thiên Chúa (Rm 8:10). Ta cảm thấy mệt mỏi trong cuộc sống khi ta dựa vào sức riêng mà không cậy dựa vào ơn Chúa giúp cho ta vượt qua. Có bao giờ ta phàn nàn rằng Thiên Chúa và đạo giáo không đem lại ích lợi gì cho cuộc sống không? Nếu đạo giáo không mang lại được gì ích lợi cho cuộc sống, thì đạo phải tới ngày tàn lụi. Tuy nhiên đạo vẫn đứng vững được cho tới ngày nay và đã đem lại lợi ích thiêng liêng cho cuộc sống muôn vàn người tín hữu. Nếu người ta không đạt được lợi ích thiêng liêng đó, thì lỗi tại đâu?

Vậy ta cần xét đâu là động lực thúc đẩy khiến cho ách mà ta vác trở nên êm ái, gánh nặng ta mang trở nên nhẹ nhàng? Thưa chính tình yêu của Đức Kitô đã khiến cho ách của Người trở nên êm ái, và gánh nặng trở nên nhẹ nhàng. Thánh Augustinô cũng đã nhận ra hệ quả của tình yêu khi đặt bút viết: Đâu có yêu, đấy không còn khổ, mà giả như người ta vẫn cảm thấy khổ, người ta lại chấp nhận cái khổ đó vì yêu. Đến với Chúa, tâm hồn ta sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng như Chúa hứa (Mt 11:29) và như thánh Augustinô đã xác nhận: Tâm hồn ta sẽ thao thức khắc khoải, cho tới khi được an nghỉ trong Chúa.

Lời cầu nguyện xin được bổ sức:

Lạy Chúa Giêsu, Chúa hứa bồi bổ sức mạnh và nghị lực,

cho những ai vất vả và mang gánh nặng của cuộc sống.

Xin dâng lên Chúa những người đau khổ về thân xác và tâm hồn;

những người lo lắng sợ hãi; những người mỏi mệt và chán sống;

những người phải mang tủi hổ và mặc cảm trong cuộc đời.

Xin ban cho họ thêm can trường và hi vọng.

Còn những khó khăn và khắc khoải của đời con,

con cũng xin dâng lên Chúa với lòng trông cậy. Amen.

 

27. Dân vi quý – Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Hằng năm vào ngày Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, giáo hội hiệp với toàn thể vũ hoàn suy tôn Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Đức Kitô và cho Đức Kitô, Người Con chí ái của Thiên Chúa (x.Col 1,16). Khi suy tôn Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ, giáo hội muốn khẳng định chân lý mà thánh tông đồ dân ngoại đã nói với tín hữu Côlôxê, đó là mọi sự trên trời cùng dưới đất đều được Thiên Chúa tạo thành nhờ Đức Kitô và cho Đức Kitô. Chúa Kitô không chỉ là nguyên lý và là cứu cánh của mọi hiện hữu mà Người còn là khuôn mẫu của mọi vật mọi loài, vì người là Trưởng tử của mọi loài thọ sinh.

Loài người là loài cao trọng nhất trong các loài thọ tạo hữu hình. Thánh Kinh minh định chân lý này qua việc bàn bạc của Thiên Chúa trước khi tạo dựng con người và sự lao nhọc của Thiên Chúa khi dựng nên con người. Các loài thọ tạo khác thì Thiên Chúa chỉ phán một lời thì liền "xẩy ra như vậy". Sự cao trọng của con người còn được khẳng định khi nó được dựng nên "giống hình ảnh" của Đấng Tạo Thành và được trao quyền làm chủ vũ trụ vạn vật (x.St 1,26-29). Hình ảnh của Đấng vô hình nay đã được mạc khải cách hoàn hảo và rõ nét nơi chính Đức Kitô (x.Col 1,15).

Suy tôn Chúa Kitô là Vua vũ trụ, giáo hội không chỉ khẳng định quyền tối thượng của Chúa Kitô trên mọi loài mà còn tuyên xưng Chúa Kitô chính là khuôn mẫu, là lẽ sống của mọi hiện hữu, nhất là của loài người. Qua các bài đọc của Chúa Nhật XXXIV TN C mà giáo hội cho trích đọc chúng ta nhận ra khuôn mẫu, lẽ sống mà Đức Kitô tỏ bày đó là hiện hữu cùng và hiện hữu cho.

"Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta" (Mt 1,23). Khi vào trần gian, Đức Kitô đã mạc khải cho nhân loại chúng thấy ý nghĩa của các hiện hữu là hiện hữu trong tương quan. Mọi thụ tạo, nhất là loài người, không ai là một hòn đảo. Ta chỉ là ta trong tương quan với người. Có người thì mới có ta. Trong mối tương quan gia đình dòng tộc, cha ông chúng ta có câu ngạn ngữ rất tượng hình: có con rồi mới có cha, có cháu rồi mới có ông, có bà.

Mối tương quan "cùng-với" này vừa nói lên sự tuỳ thuộc vừa nói lên sự liên đới giữa các hiện hữu. Nhiều muông thú hay vật nuôi như chim, gà, mèo, chó..., khi được nuôi riêng một mình thì chúng vẫn phát triển thành chúng, trái lại, con người không thể lớn lên, phát triển thành người cách đúng nghĩa khi sống một mình. Hiện tượng "người rừng" đó đây, không có khả năng nói, không có khả năng giao tiếp với đồng loại...là một minh chứng. Chúng ta làm người, chào đời, có mặt ở trần gian này là nhờ ai đó và với ai đó. Vì thế có thể nói rằng một trong những mục đích và ý nghĩa nền tảng của sự hiện hữu của con người đó là sống cùng, sống với và sống cho.

Cả cuộc đời của Đức Kitô trên trần gian, rõ nét nhất là quảng thời gian rao giảng Tin mừng và đích diểm là cái chết trên thập giá khẳng định cho chúng ta về mục đích ý nghĩa của kiếp nhân sinh. Đức Kitô là Đấng đi đến đâu thì giáng phúc thi ân đến đó (x.Cvtđ 10,38). Và chính Người đã minh định rõ ràng: "Con Người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mt 20,28).

Trên đỉnh đồi Gôngôta, dù có thể tự cứu mình khỏi án hình thập giá, nhưng Chúa Kitô đã không tự cứu mình. Dù không tìm cách tự cứu mình thế mà Người đã hứa ban hạnh phúc Thiên đàng cho người bị treo bên phải Người, đồng thời xin Chúa Cha tha cho những người đang phỉ nhổ, hành hạ và giết mình mà trong số đó chắc chắn có cả người gian phi bị treo bên trái Người (x.Lc 23,39-43).

Hình ảnh của một vị minh quân theo quan niệm người xưa đó là người lo trước cái lo của thiên hạ và vui sau cái vui của thiên hạ. "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh". Hình ảnh vị minh quân này đã được Chúa Kitô thể hiện bằng vị mục tử nhân lành sẵn sàng hiến dâng mạng sống vì đàn chiên và vì từng con chiên một. Xuất thân từ một người chăn chiên, Đavít đã được chọn gọi để làm vua Israel. Dù còn nhiều thiếu sót và lỗi lầm tày trời, nhưng Đavít chính là một hình ảnh tiên báo cho vị Mục Tử Nhân lành, vị Vua Công chính là Đức Kitô, Đấng đã dùng tình yêu của mình để dẫn đưa mọi thụ tạo, nhất là loài người về với sự thật căn bản: chúng ta là loài thụ tạo, chúng ta sẽ chỉ là mình khi hiện hữu đúng với thánh ý Đấng Tạo Thành đó là sống cùng và sống cho tha nhân.

Dỏng dạc trước Philatô, Chúa Kitô minh nhiên công bố: "Tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật, thì nghe tiếng tôi"(Ga 18,37). Và sự thật ấy được tỏ bày cách hoàn hảo bằng một Con Người chịu treo trên thập giá, với trái tim bị đâm thâu, hầu đưa toàn thề nhân loại đi lên và những ai tin vào Người thì sẽ được sống muôn đời (x.Ga 3,14-15), đồng thời làm cho muôn vật muôn loài được hòa giải với Thiên Chúa (x.Col 1,20).

Suy tôn Chúa Kitô là Vua tức nhìn nhận quyền tối thượng của Người trên đời chúng ta, là đón nhận lẽ sống, quy luật hiện hữu mà Người đã ban ra. Chúng ta có thể nhận ra quy luật ấy qua lời khẳng định của Chúa Kitô: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy...(Mc 8,34-38; Mt 16,24-28; Lc9,23-27).Và đến ngày tận thế, chính Đấng là Vua Vũ Trụ, khi "ngự trên ngai vinh hiển của Người" sẽ thẩm xét chúng ta dựa trên tiêu chí là thái độ sống cùng, sống cho tha nhân của chúng ta, đặc biệt cho những người anh em "bé mọn" (x.Mt 25,31-46).

 

28. Đường về vương quốc tình yêu

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)

Suy niệm

Để vào Vương Quốc Tình Yêu, con người phải có Tình Yêu - Tình yêu Thiên Chúa và Tình Yêu tha nhân - Chúa Giêsu luôn luôn nhắc nhở về Giới Luật Yêu Thương trong xuyên suốt cuộc hành trình loan báo Tin Mừng của Ngài. Đường về Vương Quốc Tình Yêu không có con đường nào khác ngoài “Con đường Tình Yêu Giêsu”.

“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều thuộc vào hai điều răn ấy.” (Mt.34-40)

Yêu mến Thiên Chúa

Chúa Giêsu đã lặp lại một giới răn quan trọng trong Đệ Nhị Luật về điều luật yêu thương đối với Thiên Chúa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Đnl. 6,5).

Ta sống trong cuộc đời, mọi suy nghĩ và hành động đều phải nhắm đến mục đích tôn vinh Danh Thánh Chúa. Chính nhờ thế, mà mọi suy nghĩ và hành động được thánh hóa và định hướng theo ý ngay lành vì Thiên Chúa là Đấng toàn thiện. Thánh ý Thiên Chúa luôn là Chân Thiện Mỹ và mọi việc làm của con người theo thánh ý Ngài là để tôn thờ Ngài và làm ý định của Ngài thành hiện thực trong Vương Quốc Tình Yêu của Ngài từ ngay ở cuộc đời này và cho đến đời đời. Như Chúa Giêsu đã dạy ta cầu nguyện: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, Nước cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời”.

Chính khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa, chúng ta biết thao thức và tìm về nguồn vĩnh cửu. Chúng ta biết tự hỏi và luôn nhìn lại từng bước đi của đời mình, như chàng thanh niên đã hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy nhân lành, con phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Mc. 10,17).

Chính khi ta yêu mến Thiên Chúa, ta mới biết đâu là chân giá trị của cuộc đời, để chúng ta biết chọn lựa, để chúng ta đừng “rời bỏ” hướng đi đúng đắn của đời ta chỉ vì những lợi lộc phù du. “Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mc,17-22).

Chính khi chúng ta biết yêu mến Thiên Chúa, chúng ta biết nương tựa nơi Ngài, trông đợi nơi Ngài, đặt niềm tin nơi Ngài, chứ không trông đợi vào sức mạnh ở trần gian. “Chúng ta chẳng phải là một thế hệ chỉ biết trong ngóng nơi trần thế sự tiến bộ nhất thời sao?” (Gioan Phaolô II. Thư gởi giới trẻ, số 5).

Chính khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”, ta mới thủy chung với Thiên Chúa. Hoàn toàn phó thác nơi Ngài.

Yêu người thân cận

Chính từ lòng mến yêu Thiên Chúa giúp ta biết yêu mến tha nhân và chia sẻ chân tình những buồn vui trong cuộc sống.

"Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt. 25,34-36).

Nói như cách nói của ĐGH Bênêđictô XVI, thế giới hôm là “một thế giới tan nát vì chia rẽ và hận thù”. Có biết bao người đói khát, lạc lỏng, trần trụi, bệnh hoạn, tù tội… trước những ánh mắt lạnh lùng của nhiều người sống phung phí, xa hoa, quyền lực, đàn áp, tàn bạo, tom góp…

Không chỉ là cơn đói thân xác mà còn là cơn đói tâm linh. Không chỉ là tù tội thân xác, mà còn là tù tội tâm hồn. Có biết bao người bị giam cầm trong thứ ngục tù ý thức hệ chính trị, tôn giáo, triết học, y học… xem nhẹ đạo lý, phi nhân, trong muôn hình vạn trạng phương cách hủy hoại những điều cao quý thiêng liêng của con người, như phá thai, khủng bố, buôn người, mafia…

Thay vì làm cho thế giới tốt đẹp hơn, nhiều người vì những lợi nhuận trước mắt, vì những quyền lợi riêng lẻ, đã làm bất cứ chuyện gì có thể làm được để đạt được mục đích lợi lộc ích kỷ của mình, gây ra biết bao điều bất hạnh cho người khác.

Rõ ràng, một thế giới tan nát vì thiếu tình thương.

Thánh Augustinô đã khuyên: “Ta hãy cùng nhau ao ước Thiên Quốc, hướng lòng về Quê Trời, chúng ta cảm thấy mình là lữ khách nơi trần thế này” (Chú giải Phúc Âm thánh Gio-an, bài giảng 35,9).

“Ao ước Thiên Quốc, hướng lòng về Quê Trời” bằng chính việc xây dựng một thế giới yêu thương ngay tại trần thế để ta chuẩn bị vào Vương Quốc Tình Yêu vĩnh hằng của Thiên Chúa”. Về Vương Quốc Tình Yêu, phải đi con đường Tình Yêu như Thầy Giêsu đã yêu thương nhân loại đến hiến tế mạng sống mình vì nhân loại trên Thập Giá.

Mỗi người cho nhau điểm tựa yêu thương, ta hướng tâm hồn lên cao là “đường về Vương Quốc Tình Yêu”duy nhất, không thể là đà trong những con đường dục vọng thấp hèn không có lối thoát ở trần gian.

"Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa.”

Để đạt được điều đó, Chúa đã cho ta thấy bức tranh ngày phán xét, trong đó, không có gì khác ngoài tình yêu mà con người dành cho nhau.

Trong tập truyện “Điểm tựa yêu thương”, có câu chuyện ngắn “Lời hứa” đáng cho ta suy ngẫm:

Vì xa cách nhau đến 5 tuổi, nên mọi người vẫn nói thật kỳ lạ khi chúng tôi lại giống nhau đến thế. Tôi và em gái có đường nét trên gương mặt rất giống nhau và dĩ nhiên, chúng tôi đều có mái tóc dài đỏ hoe. À, ít ra tôi vẫn còn tóc cho đến khi bắt đầu trải qua liệu pháp hóa trị. Những lọn tóc dài đỏ hoe của tôi rụng từng nắm khi quá trình trị liệu diễn ra.

Tôi sờ lên mái đầu đã trọc lóc của mình. Nước mắt ứa ra. Giờ thì mọi người sẽ không nói chúng tôi giống nhau nữa. Cô em Marlanea đang bay từ Montana sang thăm tôi. Nó không biết trông tôi sẽ tệ đến thế nào. Tôi muốn chuẩn bị tránh cho nó bị sốc hay ngăn nó thấy những gì nó sẽ chứng kiến. Tôi đã luôn trông nom nó, cố gắng bảo vệ nó an toàn, tránh xa mọi tổn hại Con bé ra đời vào ngày sinh nhật lần thứ năm của tôi. Mẹ tôi nói rằng nó là quà sinh nhật của tôi. Tôi xem việc đó là nghiêm túc và tôi yêu thương nó bằng tất cả trái tim mình.

Chúng tôi lớn lên bên nhau không rời nửa bước. Chúng tôi chính là những người bạn tốt nhất của nhau. Cha mẹ chúng tôi vẫn thường nói lẽ ra chúng tôi phải là hia chị em sinh đôi vì chúng tôi giống nhau quá nhiều, và chúng tôi quá thân thiết với nhau.

Thậm chí chúng tôi suy nghĩ cũng giống nhau nữa. Khi đi mua sắm, chúng tôi thường mua những món quà nhỏ cho nhau – từ áo thun cho đến tách cà-phê – nhưng hầu như lần nào chúng tôi cũng mua cho người kia cùng một món. Chúng tôi chia sẻ một sự gắn bó mà hầu hết mọi người đều không hiểu được.

Giờ đây là khi đã trưởng thành, chúng tôi sống ở hai bang khác nhau. Con bé gọi điện thoại cho tôi, khi tôi “A lô”, ngay lập tức, nó hỏi: “Em biết có chuyện không ổn. Nói em biết đi, chuyện gì vậy?”.

Không còn ngạc nhiên về khả năng kỳ bí khi biết trước có chuyện bất ổn xảy ra của cô em, tôi đành kể cho nó nghe. Chúng tôi lặng im, cùng khóc thầm. Những giọt nước mắt tôi không thể khóc vào sáng sớm hôm đó giờ đây tự nhiên tuôn ra trong lúc tôi trò chuyện với em gái qua điện thoại.

Từ lúc biết được tôi bị ung thư, gần như ngày nào con bé cũng gọi điện thoại. Trong giọng nó lúc nào cũng có sự lo lắng nhưng dù sao cũng luôn tươi tắn. Hàng tuần, con bé gửi cho tôi một tấm thiệp vui, một tia hy vọng rực sáng khiến tôi tin rằng cuộc đời sẽ lại bình yên.

Trong một cuộc trò chuyện đẫm nước mắt qua điện thoại, con bé nói với tôi rằng nó biết chắc tôi sẽ không qua đời vì ung thư.

Tôi hỏi trong nước mắt: “Vậy à, sao em biết?”.

“Bởi vì khi còn nhỏ, chúng ta đã từng hứa rằng chúng ta chỉ có thể qua đời nếu người còn lại cũng sẵn sàng ra đi. Mà em thì chưa sẵn sàng chết nên chị cũng không thể ra đi được.”

Chúng tôi chưa từng thỏa thuận xem nếu chúng tôi phá vỡ lời hứa thì chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng cả hai chúng tôi đều hiểu rằng điều đó chắc chắn phải rất nghiêm trọng.

Tôi nghe thấy tiếng taxi dừng trước cửa nhà. Em gái tôi, người bạn tốt của tôi, vừa đến.

Tôi run rẩy đưa tay lên sờ vào mái đầu trọc của mình một lần nữa trước khi mở cửa cho người bạn tốt nhất – em gái tôi.

Con bé đứng đó, mặt trời tỏa ánh nắng rực rỡ phía sau khiến nó lung linh như một thiên thần, giống hệt những gì tôi luôn nghĩ về nó. Con bé đứng đó, trong chiếc quần jeans bó và áo thun, đội một chiếc nón có hàng chữ: “Hôm nay đầu tôi xấu lắm”. Cả hai chị em cùng cười.

Tôi lên tiếng: “Chào em”.

Con bé trả lời: “Chào chị”.

Rồi con bé đưa tay lên gỡ nón ra. Em gái tôi đã cạo trọc đầu. Chúng tôi đứng đó, cùng khóc, cùng cười, và ôm lấy nhau.

“Trong chúng ta vẫn như hai chị em.” – Con bé nói.

“Chị yêu em.” – Đó là tất cả những gì tôi có thể nói.

Tôi nhắm mắt lại và thầm nguyện cầu: “Tạ ơn Chúa đã ban cho con cuộc sống. Tạ ơn Chúa trên Thiên Đường vì đã cho con người em. Cám ơn mẹ đã cho con món quà này”.

Dawn Braulick.

Đường về Vương Quốc Tình Yêu

“Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc!”.

Nếu ta có tên trong “những kẻ Cha Ta chúc phúc” thì hạnh phúc biết bao! Được Chúa gọi như vậy, là ta đã trải qua một cuộc đời thật ý nghĩa!

Giêsu Kitô, Vua Tình Yêu, Vua Hòa Bình, chỉ có con đường Giêsu mới dẫn chúng ta đến Vương Quốc Tình Yêu của Ngài.

Trong thế giới nhiều biến động và không ngừng hận thù tranh chấp, giữ được trái tim yêu thương để đến với nhau bằng tình yêu chia sẻ, nâng đỡ, cảm thông, tha thứ… như Tình Yêu Giêsu thật không dễ dàng gì! Nhân loại cần có nhau, nhưng chính nhân loại lại gây cho nhau những thương đau! Nhưng, Chúa sẽ ban cho sức mạnh để không ngừng phấn đấu vươn lên.

Trong Sứ điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhân ngày Quốc tế Giới trẻ lần thứ 25, ngài kể lại:

Mắt hướng nhìn về sự sống vĩnh cửu, chân phước Pier Giorgio Flassati, qua đời năm 1925, lúc mới 24 tuổi, đã nói: “Tôi muốn sống thực chứ không muốn sống lây lất!”, và trên tấm hình chụp một cuộc leo núi, gửi cho một người bạn, chân phước viết: “Hướng lên cao”, ám chỉ sự trọn lành Kitô giáo, cũng là sự sống đời đời.

Tội lỗi là sự nghèo đói tâm linh, là sự thiếu thốn tâm hồn, là kiếp tù đầy của bóng tối, là khách lạ lạc lỏng trong cuộc hành trình, là vết thương vô hình gặm nhấm hồn xác… cần lắm tình thương của đồng loại.

Hãy là những “điểm tựa yêu thương” cho nhau trong cuộc đời này, để mai này chúng ta được vào Vương Quốc Tình Yêu của Ngài.

Lạy Chúa,

Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa,

Trong mọi người. Amen.

 

29. Suy niệm của Lm. Jos. Nguyễn Thái

“Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta.” (Mt 25:31-46)

Cách đây ít lâu, một nười lính Mỹ đang đi xe buýt ở Thụy Điển nói chuyện với một người đàn ông ngồi bên cạnh rằng, “Nước Mỹ là một quốc gia dân chủ nhất trên thế giới. Những người công dân bình thường có thể đi tới Tòa Bạch Ốc để gặp Tổng Thống và thảo luận công việc.” Người đàn ông bên cạnh trả lời, “Điều đó đâu có đáng là gì. Ở Thụy Điển, Nhà Vua và dân chúng cùng đi với nhau trên cùng một chiếc xe buýt kìa.” Khi người đàn ông vừa nói chuyện đó bước xuống khỏi xe buýt, người lính Mỹ đã được các hành khách khác còn lại trên xe nói cho biết người ấy chính là Vua Gustav Adolf VI.

Trong bài phúc âm hôm nay, Mt 25:31-46, “Dụ Ngôn Cuộc Phán xét chung” nói lên những điều nghịch thường của đức tin Kitô giáo. Ngày nay nói đến sự cai trị, người ta ngĩ đến sức mạnh của vũ khí, quyền lực, kinh tế, tiền bạc, quảng cáo,thị trường… Chúa Giêsu nói đến sự cai trị bằng tình yêu, phục vụ và trách nhiệm. Chúa Giêsu là Đức Vua. Người đến không phải để được phục vụ, nhưng phục vụ, và hy sinh mạng sống của Người làm giá cứu chuộc cho nhiều người (Mt 20:28). Vương Quốc của Người gồm những người cùng cực, nghèo khổ, đói khát, trần truồng, bị bỏ rơi, và tù tội. Những ai săn sóc, phục vụ cho những nhu cầu cần thiết của họ thì thuộc về Vương Quốc của Người.

Ngược lại, chúng ta sẽ bị phạt “nếu chúng ta bỏ qua không đáp ứng những nhu cầu nghiệm trọng của những người nghèo khó và của những kẻ bé mọn, anh chị em của Ngài” (GLCG #1033). “Thiên Chúa chúc phúc cho những ai giúp đỡ những người nghèo và Ngài lên án những kẻ ngỏanh mặt đi” (GLCG #2443).

“Dụ ngôn cuộc phán xét chung” trình bày một bối cảnh người mục tử tách rời chiên ra khỏi dê. Đây là điểm sẽ tạo nên ngạc nhiên. Ai là chiên? Ai là dê? Đã có những người không nhận ra rằng họ đang phục vụ cho Chúa Kitô khi họ cho những người đói khát ăn uống, cho kẻ mình trần mặc, đón tiếp khách lỡ đường, viếng thăm người đau ốm, tù đày. Và cũng có những người đã không nhận ra rằng họ đã tực sự chểnh mảng, không săn sóc Đức Kitô, khi họ làm ngơ trước những nhu cầu của những người nghèo khổ (GLCG #2443).

Phúc âm nói rất rõ, người được cứu và người không được cứu, chiên và dê sẽ bị phân chia ra bởi tiêu chuẩn căn bản dực trên những việc làm bác ái yêu thương, chứ không phải dựa vào danh giá, chức vụ, và địa vị xã hội. Và đây chính là điều làm cho nhiều người phải ngạc nhiên.

Một văn sĩ Kitô giáo khác, Frederick Buechner đã diễn tả cùng một tư tưởng này như sau: “Nhiều người vô thần là một người có lgòn tin mà không biết. Ngược lại, nhiều người có lòng tin mà không biết. Ngược lại, nhiều người có lòng tin lại là một người vô thần mà không hay biết. Bạn có thể thành như thể có một Đấng Tối Cao. Ngược lại bạn cũng có thể thành thật tin tưởng rằng có một Thiên Chúa nhưng lại sống như thể không có gì.”

Chưa bao giờ sự chênh lệch giữa những người giàu có và những người nghèo khổ lại càng ngày càng tách biệt như ngày nay. Người Mỹ chiếm tỷ lệ là 4% dân số thể giới, nhưng đã tiêu thụ đến 40% số dầu hỏa của nhân loại. Họ nắm trong tay 80% của cải của thế giới. Tài tử Jack Nicholson chỉ nói mấy câu tếu táo trong phim Batman đã lãnh đợc 10 triệu đô la. Tài tử Bill Cosby với lợi tức cả trăm triệu đô la hàng năm nếu di chuyển đến sống ở một quốc gia nhỏ bé nào đó, có thể làm cho lợi tức của toàn thể quốc gia đó tằng lên gấp đôi. Ca sĩ Michael Jackson đã thương lượng với nhà xuất bản để ra một CD với hợp đồng đòi hỏi tăng từ 18 triệu tới 25 triệu đô la. Tất cả các cầu thủ thể thao về bóng rổ, baseball, và football, đều là các triệu phú! Michael Jordan ký hợp đồng 37 triệu đô la 1 năm.

Trong khi đó theo báo cáo của Hội Ngị quốc Tế về tình trạng của các trẻ em trên thế giới. Mỗi năm, có khoảng 14 triệu trẻ em chết oan uổng vì đói ăn, suy dinh dưỡng, và thiếu sự săn sóc về thuốc men. Bà Oprah Winfrey trên show truyền hình đã đề nghị rằng chỉ cần mỗi người Mỹ bỏ ra 19 xu một tuần, chưa tới 10 đô la một năm, có thể cứu vớt được 14 triệu sinh mạng trẻ em dễ dàng. Có người đề nghị rằng chỉ cần cắt giảm 10% ngân sách quốc phòng của Mỹ cũng có thể cứu sống được 14 triệu sinh mạng hằng năm.

Đối diện với tình trạng khủng hoảng của thế giới hiện nay, ĐGH Gioan Phaolo II đã kêu gọi mọi người hãy dấn thân xây dựng một nền văn minh mới:

“Chính Ngài nói với bạn ‘Hãy chỗi dậy! Hãy chỗi dậy!’ Ngài yêu cầu bạn từ bỏ các ngẫu tượng của thế giới và chọn Ngài là tình yêu, thứ tình yêu mang lại một ý nghĩa hoàn toàn cho cuộc sống của bạn và kêu mời bạn hướng về tuổi xuân cũng như về mùa xuân, vui vẻ sống mùa xuân trong việc trao tặng, trao tặng chính mình, trao tặng Chúa Kitô, trao tặng Ngài cho mỗi một người trong chúng ta, và sau đó trao tặng chúng ta cho Ngài, trao tặng chúng ta cho tha nhân cũng như trao tặng chúng ta cho ngài qua tha nhân. Đó là viễn ảnh của việc xây dựng một nền văn minh khác, một nền văn minh mới: nền văn minh tình thương.” (TVNNTB, tr. 153-154).

Thật vậy, Giáo Hội xét như hiền thê của Chúa Giêsu, tiếp nối công việc mục vụ của người, Giáo Hội luôn dứt khoát chọn lựa đứng về phía những người nghèo và nhừn kẻ bị bỏ rơi. Giáo Hội đã không ngừng lên tiếng, kêu gọi, và đấu tranh chống lại sẹ nghèo đói, bất công xã hội dưới mọi hình thức, nghèo về vật chất, tinh thần, và đặc biệt nghèo tình thương yêu (GLCG từ số 2443 tới 2449).

Trong cuộc Cách Mạng Pháp vào năm 1789 đã xảy ra một câu chuyện về một bà mẹ đi lang thang trong rừng 3 ngà với hai người con, họ không có gì ăn, phải ăn rễ và lá cây rừng để sống. Vào ngày thứ ba, bà mẹ nghe thấy tiếng của những người lính đang tiến đến gần, bà vội lôi kéo hai người con chui vào một bụi rậm ẩn trốn. Viên trung sĩ chỉ huy đám lính đi lục soát các bụi rậm đã nhìn thấy người mẹ đói khổ và hai đứa con thì chạnh lòng thương bèn đem cho họ một ổ bánh mì. Bà mẹ cầm ngay lấy nó, bẻ ra làm hai miếng, và cho mỗi người con một nửa. “Bà mẹ chẳng giữ miếng nào cho bà ấy cả,” viên trung sĩ nói. “Bà ấy không đói sao? Một người lính hỏi. “Không phải vậy, vì bà ấy là mẹ, viên trung sĩ trả lời.

Đứng trước nhu cầu của thế hiện nay, Mẹ Giáo Hội nhận thấy cần phải đáp lại bằng một nền văn minh của tình thương, qua lời nhắn nhủ của ĐGH Gioan Phaolo II, tình thương đó dựa trên tình thương của Chúa Giêsu Kitô, Vua của Lòng Thương Xót, là nền tảng cho tất cả các giá trị phổ quát mà con người đang đi tìm kiếm.

 

30. Chúa sẽ luận xét chúng ta về điểm nào?

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

Chúa Giêsu dựng nên một cảnh đầy hình ảnh để nói cho biết nguyên tắc phân xử khi đến ngày cuối cùng. Qua đó Ngài muốn dạy chúng ta ngày nay phải sống theo nguyên tắc nào. Các yếu tố Ngài dùng để dựng cảnh để minh giải cho giáo huấn đều quen thuộc với người nghe Ngài nói. Nhiều truyện ký Do thái thuộc loại văn gọi là khải huyền trước Chúa Giêsu đã dùng những hình ảnh ít nhiều kinh khủng về ngày tận cùng lịch sử. Chúa Giêsu lấy lại một số không quá đáng và Ngài nhấn mạnh đến điểm Ngài cho là tối quan trọng: các cử chỉ yêu thương đối với người nghèo và người hèn mọn là những kẻ Ngài tự đồng hóa. Cá nhân Ngài không cần ai giúp của ăn, nơi ở, áo mặc, nhưng Ngài muốn được chúng ta phục vụ trong con người những kẻ Ngài tuyên bố là anh em ưu ái của Ngài. Nên lưu ý khi mô tả hình ảnh vị vua ngự trên ngai tòa vinh hiển, Chúa gợi ra quyền hành quân vương và thẩm phán của Ngài nghĩa là quyền quản lãnh toàn thể nhân loại. Một vài điểm để suy gẫm rút ra từ bài học này:

1) Các người lành trả lời: Lạy Chúa, có khi nào chúng tôi thấy Chúa đói khát… Như thế các người lành có hành động yêu thương đối với người nghèo túng cũng không biết rõ tất cả tầm mức các việc mình làm. Có khi nào người ta thấu suốt ý nghĩa một hành vi yêu thương chân chính? Thiên Chúa ẩn mình giữa người ta có thể khiến chúng ta kinh ngạc, nhưng phải chăng chính việc ấy giúp Ngài đến rất gần với chúng ta? Chúng ta không thể nào chịu nổi nếu Ngài tỏ mình trong thực tại quyền năng của Ngài. Ngài để cho chúng ta giao thiệp được nơi đặc điểm thâm sâu nhất mà cũng phù hợp với chúng ta; Ngài là tình yêu hiến tặng cho khả năng yêu thương của chúng ta. Để chúng ta có thể yêu thương Ngài cách rất thiết thực và luôn vừa tầm chúng ta. Ngài tự đồng hóa với người sống bên cạnh mà chúng ta gặp gỡ và có thể đón tiếp vào trong lòng; Ngài tự đồng hóa các đặc biệt với người khốn khổ mà chúng ta có thể và phải giúp đỡ về mặt thể xác lẫn tinh thần. Người Kitô hữu hãy nhờ lại hai lời Chúa dạy. Lời thứ nhất: sẽ luôn còn có người nghèo ở giữa các người. Lời thứ hai: Ta ở với các ngươi cho đến tận thế. Có thể nói Chúa ở voới các môn đệ cho đến tận thế trong con người những kẻ nghèo khổ. Ngày nay chúng ta có thực sự xác tín có những người túng thiếu, trong họ, Chúa chờ đợi tình yêu thương của chúng ta hay không? Đặt mình ở mức độ bản thể thần linh Chúa Giêsu đã phán: Cha với Ta là một. Chúa Cha lại là tình yêu. Tình yêu ấy, khi xuống mức độ nhân tính đã khiến Chúa Giêsu nói: người nghèo với Ta là một. Điều này đo lường tầm quan trọng các hành vị chúng ta đối với người nghèo.

2) Các kẻ bị chúc dữ sẽ nói như người lành: Lạy Chúa, có khi nào chúng tôi thấy Chúa đói khát… Các kẻ bị loại bỏ, các kẻ cứng lòng, các kẻ buông tuồng, ích kỷ cũng không nhận rõ tất cả tầm mức thái độ của mình. Có những trường hợp bỏ qua không hành động cho người nghèo khổ tương đương với việc ấn họ sâu thêm vào cảnh khốn cùng. Hình phạt đáng sợ của thái độ ấy ở chỗ tương đương với việc hất hủi Thiên Chúa. Thế mà nếu Thiên Chúa là tình yêu trọn vẹn, Ngài cũng là công lý hoàn toàn. Công lý ấy tỏ ra ở chỗ Ngài không ép buộc những ai khước từ Ngài. Sự cùng khổ và cô đơn của người đã khước từ Thiên Chúa là một đau đớn vô cùng khổ sở hơn mọi đau đớn trần gian này. Người Kitô hữu được mời gọi phải coi trọng hết sức trách nhiệm của mình đối với những người nhỏ bé, yếu đuối, khốn khổ, để khỏi bị tách biệt xa Thiên Chúa. Để kết thúc nên lưu ý một chi tiết: Chúa phán: mỗi một lần các người làm điều ấy… Trong ngôn ngữ Chúa Giêsu dùng (tiếng aram) động từ “làm” ở đây bao gồm ý nghĩa “phục vụ”. Người ta liên tưởng đến lời Chúa Giêsu: Ta đến để phục vụ. Trước mặt Thiên Chúa có ai nghèo hèn và cực khổ hơn những người tội lỗi là chúng ta tất cả? Chúa Giêsu đã đặt mình phục vụ chúng ta, mưu cầu ơn cứu độ, hạnh phúc và hân hoan cho chúng ta. phúc cho chúng ta nếu bắt tay làm, nghĩa là hành động phục vụ cho sự cứu rỗi và hạnh phúc của những người nghèo nhất trong anh em chúng ta.

 

31. Vương quốc của tình yêu

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Trong tác phẩm mang tựa đề: “Thị kiến của người Kitô hữu” (The Christian Vision) nhà văn John Powell có kể một câu chuyện thần thoại của người Ái Nhĩ Lan. Câu chuyện đưa chúng ta trở lại thời các vua cai trị đất nước này:

Một hôm nhà vua thấy mình không có con để kế vị, ông bèn sai các sứ giả thông báo cho các thành phố và làng mạc biết: nhà vua mời các thanh niên nào có đức tính tốt đến triều đình để được phỏng vấn. Như thế nhà vua hy vọng có thể chọn được một người xứng đáng lên ngôi vị mình trước khi băng hà. Hai đức tính được nhà vua đặc biệt lưu ý, đó là người thanh niên ấy phải có lòng mến Chúa và yêu người.

Chàng thanh niên trong câu chuyện nghe như có tiếng thầm kín bên trong thúc đẩy chàng lên đường đến triều đình để được nhà vua phỏng vấn, vì chàng quả thật là một người có lòng mến Chúa và yêu người. Nhưng chàng lại nghèo khó đến nỗi không có được một bộ quần áo chỉnh tề để đến triều đình. Chàng cũng chẳng có tiền để mua lương thực dự trữ cho cuộc hành trình dài đến lâu đài nhà vua. Cuối cùng, chàng quyết định đi xin quần áo và lương thực cần thiết.

Khi mọi sự đã sẵn sàng, chàng lên đường. Sau một tháng hành trình, chàng đã nhìn thấy lâu đài của nhà vua hiện ra trên đỉnh đồi ở đàng xa. Cũng vào lúc ấy, chàng gặp thấy một ông già nghèo đói ngồi bên vệ đường. Người ăn xin ngửa tay van xin chàng giúp đỡ: “Anh ơi, tôi đói, tôi rét, anh làm ơn cho tôi áo mặc, cho tôi bánh ăn”. Chàng thanh niên cảm động nhìn người ăn xin. Chàng cởi áo khoác của chàng và đổi lấy chiếc áo rách tả tơi của người ăn xin. Chàng cũng chia sẻ lương thực dự trữ của chàng. Rồi chàng đến lâu đài nhà vua trong bộ áo rách tả tơi và không đủ lương thực cho cuộc hành trình trở về. Đến trước lâu đài, lính gác chận chàng lại ở cổng, bắt chàng vào khu khách tham quan. Sau một thời gian dài chờ đợi, chàng mới được cho vào gặp nhà vua. Trước ngai vàng, chàng cúi mình thật sâu bái lạy, đến lúc đứng thẳng lên, chàng hết sức bỡ ngỡ, vì chàng thấy ông già ăn xin bên vệ đường mà chàng đã gặp giờ đây lại ngồi trên ngai vàng. Chàng lên tiếng hỏi:

- Tâu Đức vua, có phải Đức Vua là người ăn xin bên đường mà tôi đã gặp chăng?

- Đúng thế, Đức Vua đáp.

Chàng lại hỏi:

- Vậy tại sao Đức Vua lại làm như thế đối với tôi?

Đức vua đáp:

- Ta phải cải trang làm người ăn xin để thử xem ngươi có thật lòng mến Chúa và yêu người không.

Anh chị em thân mến,

Đây là câu chuyện thần thoại, nhưng điểm chủ yếu rất xác thực. Vương quốc của Chúa Kitô Vua là vương quốc của tình yêu. Muốn vào vương quốc của Ngài, phải là người có lòng yêu mến Chúa và yêu thương anh em thật sự. Tin Mừng hôm nay cho thấy: chúng ta sẽ bị xét vào cuối đời về cách chúng ta yêu mến và phục vụ Chúa Kitô Vua như thế nào trong những người anh em nghèo khó bé nhỏ nhất của chúng ta.

Chúng ta hãy nghe lại Lời Chúa: “Lúc ấy, Đức Vua sẽ phán: Ta đói, các ngươi đã cho ta ăn. Ta khát, các ngươi đã cho uống. Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước. Ta đau yếu, các ngươi đã chăm sóc… Bấy giờ, những người công chính –đứng bên phải– hỏi lại Chúa rằng: Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói hay khát đâu mà cho ăn cho uống…? Đức Vua sẽ đáp lại: Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”.

Đức Vua đã làm cho những người lành đức bên phải, cũng như những kẻ dữ đứng bên trái, đều phải chưng hửng. Người bên phải rất sửng sốt khi thấy Đức Vua kể những việc tốt họ đã làm cho những người bất hạnh trong cảnh đói khát, rách rưới, tù đày, như là những việc giúp đỡ họ dành cho chính bản thân Đức Vua. Còn người bên trái cũng hết sức ngỡ ngàng khi thấy Đức Vua đồng hóa bản thân Ngài với những người mà họ đã coi thường, nên đã không cho họ cơm ăn, áo mặc, nhà ở… Lời giải thích của Chúa đã làm cho cả hai bên- bên người lành và kẻ dữ- đều sáng mắt kinh ngạc: Họ không ngờ rằng mỗi lần họ tiếp đón hay hất hủi những người cần đến họ giúp đỡ là họ đã tiếp đón hay hất hủi chính Chúa Giêsu!

Thưa anh chị em,

Thiên Chúa đã âm thầm len lỏi vào giữa đám đông nhân loại mà không ai biết. Chúng ta thường nhận diện được Chúa lúc chúng ta không ngờ. Vì thực khó mà nhận diện được Chúa, nếu chúng ta vẫn quan niệm Thiên Chúa như một Đế Vương phong kiến, chễm chệ trên ngai vàng. Nhưng nếu chúng ta nhận được rằng Thiên Chúa không phải là Vua thống trị nhưng là Vua phục vụ, thì chúng ta không thể không nhận ra Ngài nơi những người bé mọn nhất. Chúng ta sẽ không còn thắc mắc như người lành hay kẻ dữ trong ngày phán xét cuối cùng: “Thưa Ngài, có khi nào chúng tôi thấy Ngài đói, Ngài khát, Ngài rách rưới… đâu?” Bởi vì thiên Chúa đã ẩn dấu bộ mặt thần linh của Ngài trong bộ mặt nhân loại: Người láng giềng, bạn đồng nghiệp, nhưng cũng có thể là khuôn mặt của hàng triệu con người trên thế giới đang ê chề trong cảnh thiếu ăn, nghèo đói, thất nghiệp hay những công việc nô lệ, vô nhân đạo, đang bị kẻ mạnh áp bức hay người quyền thế bóc lột. Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta rằng Thiên Chúa tự đồng hóa với khuôn mặt của hàng triệu con người đó, vì họ là anh em bé nhỏ của Ngài.

Anh chị em thân mến,

Chúa Kitô là Vua. Vương quốc của Ngài là vương quốc của tình yêu. Ai sống trong tình yêu thì thuộc về Chúa Kitô và là công dân của Nước Thiên Chúa. Tình yêu, nói được là như “chứng minh nhân dân”, như “thẻ căn cước”của Nước Thiên Chúa. Tình yêu không đòi hỏi nhiều lời nói cho bằng nhiều hành động thiết thực, sống động. Cụ thể là chia sẻ chính những lo lắng, khó khăn, khốn khổ, cùng cực của đồng bào trong hoàn cảnh xã hội chúng ta đang sống. chúa Giêsu đã khẳng định: chúng ta sẽ bị phán xét trong ngày sau hết về cách chúng ta đã phục vụ Đức Kitô Vua như thế nào trong những người anh em đói, khát, rách rưới, bệnh tật, tù tội… Hãy phục vụ những Đức Kitô Vua ấy thế nào để vào ngày cuối cùng, Chúa Kitô Vua sẽ mời gọi chúng ta: “Hãy đến, hỡi những người Cha Ta chúc phúc. Hãy đến thừa hưởng vương quốc đã dành sẵn cho anh em từ thuở đời đời”.

 

32. Một tước hiệu dễ bị ngộ nhận

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Tin Mừng thánh Matthêu chương XXV mẹ Hội Thánh đưa vào trong Thánh Lễ cuối năm Phụng vụ, dễ bị ngộ nhận như là gai chướng. Sự gai chướng dễ bị ngộ nhận này không nguyên chỉ vì tước hiệu Vua vũ trụ mà Hội Thánh suy tôn Thầy Chí Thánh và còn cả nơi nội dung lời giảng dạy của Người qua dụ ngôn “cuộc phán xét chung”.

Hình ảnh của một minh quân trong lịch sử quả là hiếm hoi so với nhiều ông vua gian ác, độc tài, chuyên chế. Nghĩ đến thể chế phong kiến người ta dễ có cái nhìn không mấy thiện cảm. Đã là quân chủ với một ông vua cai trị kiểu cha truyền con nối thì sự chuyên chế hà khắc thường xảy ra. Thế mà Hội Thánh vẫn không ngần ngại suy tôn Chúa Kitô với danh hiệu Vua vũ trụ. Qua danh hiệu này Hội Thánh không chỉ nhìn nhận quyền tối thượng của Đức Kitô trên mọi vật mọi loài thọ tạo, hữu hình và vô hình, mà còn tuyên bố với mọi người về niềm hạnh phúc và vinh dự của mọi loài thọ tạo khi có Đức Kitô làm vua của mình.

Đã là loài thọ tạo thì phải thần phục Đấng dựng nên mình. Tuy nhiên chúng ta không sống tâm tình thần phục như nguời nô lệ. Đấng xứng đáng là Vua, là chủ tể của chúng ta đã tự nguyện làm anh cả giữa loài người. Đấng tạo thành đã tự nguyện trở nên con của loài người. Và đặc biệt Người đã chọn hạnh phúc của con người, của từng người làm vinh quang của chính Người. Có thể nói không ngoa ngữ chút nào rằng Người tự nhận số phận của con người, của từng người, nhất là những người yếu thế, kém phận, làm số phận của chính Người.

Chúa Kitô làm vua của một vương quốc mà trong đó mọi người từ cổ chí kim đều là con dân của Người. Chúng ta hãnh diện và vui mừng vì vương quốc mà Chúa Kitô thống trị là một vương quốc mà trong đó “dân vi quý, dân vạn đại”. Chúng ta vui mừng và hãnh diện trong vương quốc này vì vị Vua cai trị chúng ta là Đấng có thể nói theo kiểu phàm nhân rằng “luôn lo trước cái lo của thiên hạ và vui sau cái vui của thiên hạ”. Chúng ta lại càng hãnh diện và vui mừng vì vương quốc Chúa Kitô thiết lập là một vương quốc mà trong đó không một ai là đáng bỏ đi, không một ai là thành phần hạ đẳng.

Khi các ngươi làm hay không làm điều tốt cho một trong những kẻ bé mọn này là các ngươi đã làm hay đã không làm cho chính Ta x.Mt 25,31-46). Hiến pháp, luật lệ của vương quốc này thật đơn giản. Đó là phải sống cho có lòng, có tâm với nhau, đặc biệt với người anh chị em yếu thế, kém may mắn cận kề chúng ta.

“Thầy bảo thật cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisiêu thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Và Chúa Giêsu đã quảng diễn sự phải “công chính hơn” này là không được phép loại bỏ bất cứ một ai dù chỉ là trong cung cách hành xử hay trong tâm trí. Không loại bỏ tha nhân chưa đủ, Người còn đòi hỏi phải biết liên đới với tha nhân trong hạnh phúc của họ. “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Dĩ nhiên, nếu vì lỗi của ta thì việc bỏ của lễ lại để đi làm hòa trước đã, là điều dễ hiểu. Còn nếu không phải do lỗi của ta mà do lỗi của người anh em, thì ta cũng phải làm như thế. Nếu không làm thì ta sẽ mắc phải món nợ tình yêu, vì ta thờ ơ với số phận của người anh em mình. Người có lỗi, người có tội là một trong những bé mọn mà ta cần quan tâm nâng đỡ. Mẹ Hội Thánh đã hiểu chân lý này khi dạy chúng ta những mối thương người: “Lấy lời lành mà khuyên người; Mở dạy kẻ mê muội; An ủi kẻ âu lo; Răn bảo kẻ có tội…”

Không ai có thể lên trời “một mình”. Không ai có thể làm con dân Nước trời với sự ích kỷ, với thái độ bàng quan, hững hờ trước người anh em. Mặc dù vẫn có đó sự gai chướng của hình ảnh vị quân vương trần thế của quá khứ lịch sử, thế nhưng đã đón nhận chân lý trong niềm tin thì chúng ta cùng với toàn thể thụ tạo phải thần phục tuyệt đối Đấng tạo thành nên mình. Đã con thần dân của vương quốc tình yêu thì ta phải sống theo thể chế và luật lệ của vương quốc ấy mà thôi. Luật lệ và thể chế ấy không gì hơn là sự hiệp thông liên đới huynh đệ trong tình yêu của Vị Vua trên các vua đã yêu thương chúng ta trước đến độ hiến dâng cả mạng sống vì chúng ta. Lịch sử cho thấy đã từng có biết bao người xưa lẫn nay can đảm đón nhận sự gai chướng ít nhiểu bị ngộ nhận khi thần phục Đấng là Vua Vũ Trụ nhưng rồi họ đã cảm nghiệm nó thật là “êm ái và nhẹ nhàng” (x.Mt 11,28-30).

 

33. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội long trọng cử hành lễ Chúa Kitô là Vua vũ trụ với niềm vui khôn tả và quả quyết rằng Người là Vua và là Chúa chúng ta. Nhưng vương quốc của Người không thuộc về thế gian này.

Vậy Người là Vua những gì? Người là Vua vinh quang, Vua mọi sự. Đơn giản, Người là Vua, hoàn toàn là Vua. Thực tế xem ra khó chấp nhận, vì con người muốn biến Đức Giêsu thành trò cười khi mặc cho Người áo tím và đội vòng gai.

Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa là Vua dân Ngài tuyển chọn. Tước hiệu này được gán cho Chúa Kitô, chính nơi Người mà mạc khải được hoàn tất. Người đã khai mở triều đại Thiên Chúa bằng chiến thắng trên sự chết, khước từ vương quốc nhân loại sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều: “Biết họ muốn tôn phong Người lên làm vua” (Ga 6, 5). Người sẽ thể hiện ý nghĩa tuyệt đối về vương quốc của Thiên Chúa trên thập giá. Bị kết án bởi những tham vọng của vương quốc thế trần, nhưng chiến thắng bằng vương quốc vĩnh cửu, yêu thương và an bình.

Khi nói đến tước hiệu “vua” một số người thường nghĩ ngay đến quyền lực và sức mạnh tuyệt đối. Nhưng quyền ở đây là gì? Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe có câu trả lời. Đó là quyền sống đời đời! Vậy câu hỏi được đặt ra: chúng ta trao quyền đó cho ai? Chính chúng ta cũng không có quyền sống đời đời, làm sao chúng ta có thể trao ban cho người khác? Ngay cả sự sống chúng ta lãnh nhận, chúng ta cũng không thể tặng ban cho chính mình, huống hồ là sự sống thần linh, sự sống đời đời.

Chúng ta lãnh nhận sự sống từ Thiên Chúa, chỉ mình Thiên Chúa mới có thể trao ban sự sống ấy. Chúa Cha đã trao cho Chúa Con quyền này, và đặt vào tay Chúa Con, nên Chúa Con là Vua vũ trụ. Lời nguyện Thánh lễ hôm nay cho thấy Thiên Chúa muốn thiết lập mọi sự nơi Con yêu dấu của Ngài là Vua vũ trụ “Chúa Giêsu là nền tảng của chúng ta, nơi Người chúng ta đặt mọi hy vọng”. Chúng ta biết, muốn xây dựng một lâu đài cao vút, thì nền móng phải vững chắc và đáng tin. Vậy, Chúa Giêsu là đá tảng từ trời xuống đặt nền trên trái đất để xây dựng một nhân loại mới lên tới trời!

Đời sống chúng ta được xây dựng trên Chúa Kitô, đức tin càng chắc chắn và sống động thì sự hiện hữu của chúng ta càng gắn bó chặt chẽ với Thiên Chúa. Chính bởi nghe và đồng hóa với Lời Thiên Chúa mà đức tin chúng ta trở nên chắc chắn và lớn lên trong Đức Kitô.

Lời cầu nguyện đầu lễ: “Xin cho hết mọi loài thọ sinh đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi…” Một trong những thuộc tính của vị vua là bảo vệ thần dân, giải phóng dân của mình khỏi tay quân thù ; Chúa Kitô Vua đã giải thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ của tội lỗi và sự chết. Hận thù, bạo lực, ngẫu tượng làm chúng ta thất vọng, Người đến giải thoát chúng ta khỏi mãnh lực của sự chết, khỏi nô lệ của mọi thứ vui, rượu chè, cờ bạc, sì ke, ma túy…

Lời Chúa trong sách Tiên tri Êdêkiel “Chính Ta sẽ chăn dắt các chiên Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ, Chúa là Thiên Chúa phán như thế. Ta sẽ tìm con chiên đã mất, sẽ đem con chiên lạc về, sẽ băng bó con chiên bị thương tích, sẽ lo chữa con chiên bị ốm đau” (Ez 34, 15-16).

Và khi giải thoát chúng ta, Đức Kitô đã đưa ra khỏi tình trạng nô lệ để chúng ta trở nên những người tự do. Chính tình yêu cho phép chúng ta sống sự sống của Thiên Chúa nơi con người, và phục vụ đồng lo của mình của mình ại trong yêu thương khi trao ban cho người đói đồ ăn, người khát thức uống, cho khách đỗ nhờ, cho người mình trần áo mặc, viếng thăm kẻ bị giam cầm, an ủi người cùng khổ ; tóm lại, yêu thương và phục vụ con người là trả lại cho anh em đồng loại phẩm giá bị đánh mất. Đây chính là điều Đức Giêsu đã làm để giải thoát con người.

Sau cùng, Đức Kitô có quyền xét xử. Chính người tuyên án: “Mỗi lần các ngươi đã làm (hay các ngươi đã không làm) cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm (hay các ngươi đã không làm) cho chính Ta” (Mt 25, 40.45).

Chúng ta không thể chiếm lấy gia nghiệp nước trời đã chuẩn bị từ tạo tiên lập địa cho những ai phục vụ trong yêu thương. Chỉ người sống yêu thương mới có chỗ trong triều đại sự sống và chân lý, ân sủng và thánh thiện, công chính, yêu thương và an bình của Thiên Chúa.

Lời cầu nguyện Ca hiệp lễ kết thúc bằng lời cầu xin: “cho hết mọi loài thọ sinh (…) biết phụng thờ Chúa là Đấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng”.

Nếu Đức Kitô Vua đã chiến đấu cho đến chết, thì các thần dấn cũng phải chiến đấu. Vì thể chế xã hội loài người không muốn Đức Kitô cai trị trên họ nên họ chiến đấu chống lại Đức Kitô.

Nếu chúng ta là thần dân của Đức Kitô, chúng ta phải cầm vũ khí tốt để chiến đấu, vũ khí ấy là: chuyên cần cầu nguyện, siêng năng lãnh nhận các bí tích, sự chúc lành của Thiên Chúa chỉ cho chúng ta trước cuộc chiến đấu, biết chiến thắng cuối cùng của Thiên Chúa và của Đức Kitô trên mọi sức mạnh của sự dữ.

Chúng ta chỉ còn đặt mình dưới sự hướng dẫn của Vua Kitô, sống trung thành với Người như những tôi tớ, can trường trong đức tinh, nhiệt thành trong đức mến, để một ngày kia, chúng ta có thể nghe Vua Kitô nói với chúng ta rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ” (Mt 25, 34).

Lạy Chúa Giêsu là Vua các vua, Chúa các chúa, Vua của vũ hoàn. Chúng con cùng với muôn loại thụ tạo cung chúc tôn thờ và cảm tạ Vua Giêsu, Vua Tình Yêu. Xin cho đời chúng con thành lời ca ngợi, luôn làm theo ý Vua vũ hoàn nhiệt thành phục vụ Chúa và tha nhân. Lạy Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, mọi vinh quang và danh dự cho Thiên Chúa Cha đến muôn đời. Amen.

 

34. Giêsu vua Tình Yêu

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội long trọng cử hành lễ Chúa Kitô là Vua vũ trụ với niềm vui khôn tả và quả quyết rằng Người là Vua Tình Yêu và là Chúa chúng ta. Vua của Vương Quốc Yêu Thương và An Bình. Hôm nay, Vị Vua ấy nói với chúng ta về cuộc phán xét tình yêu. Khi sử dụng ẩn dụ chiên - dê, Người cho chúng ta thấy rằng đây sẽ là cuộc phán xét về tình yêu.

Chỉ có tình yêu là điều đáng kể, nên thánh Ignatiô Loyola chiêm niệm để đạt được tình yêu, và ngài khuyên chúng ta cần phải đặt tình yêu vào trong lời nói và việc làm của mỗi người. Tin Mừng chỉ rõ, mỗi việc bác ái chúng ta làm, là làm cho chính Chúa: "Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với" (Mt 25,34-36). Hơn nữa, "Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta" (Mt 25,40).

Cuộc phán xét tình yêu, đưa chúng ta trở về với thực tại chân đặt trên đất, đầu ngẩng lên nghe Chúa Kitô phán xét. Vương triều của Chúa Kitô rất khác với chuyên quyền trần thế, bởi tình yêu là tiếng nói cuối cùng còn tồn tại.

Chúa Giêsu cho chúng ta thấy ý nghĩa của vương quốc hay quyền lực là để phục vụ người khác. Người khẳng định rằng Người là Chúa, là Thầy (Ga 13,13), và là Vua (Ga18,37), nhưng Người đã thi hành chức năng Thầy của mình bằng cách rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13,4 ), và trao ban mạng sống mình. Chúa là Vua cai trị bằng sự khiêm nhường nằm trong (máng cỏ!) và bước lên ngai vàng là Cây Thập Giá.

Trên Thánh Giá có một bảng chữ viết rằng: "Giêsu Nagiarét, Vua dân Do Thái" (Ga 19,19), cái bên ngoài khẳng định mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu cai trị trên cây Thánh Giá và phán xét chúng ta bằng tình yêu, như thánh Gioan Thánh Giá đã nói: "Anh chị em sẽ bị xét xử về tình Yêu".

Câu hỏi được đặt ra: Vua Tình Yêu phán xét thế nào? Khi Chúa Giêsu giáng lâm, tất cả mọi người tốt hay xấu, lành hay dữ, thiện hảo hay ác độc, đều có mặt để Người xét xử. Tiêu chuẩn là tất cả những gì chúng ta thực hiện cho anh em. Chính người tuyên án: "Mỗi lần các ngươi đã làm (hay các ngươi đã không làm) cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm (hay các ngươi đã không làm) cho chính Ta" (Mt 25, 40.45). Vì thế, cái gì sẽ xảy ra cho những kẻ không những không cho kẻ đói ăn, mà còn cướp lương thực khỏi họ; không những không tiếp rước khách lạ, mà còn là nguyên nhân làm cho người khác trở nên khách lạ.

Chúng ta không thể chiếm lấy gia nghiệp nước trời đã chuẩn bị từ tạo tiên lập địa cho những ai phục vụ trong yêu thương. Chỉ người sống yêu thương mới có chỗ trong triều đại sự sống và chân lý, ân sủng và thánh thiện, công chính, yêu thương và an bình.

Ai trong chúng ta cũng muốn vào Vương Quốc ấy. Lời cầu nguyện Ca hiệp lễ kết thúc bằng lời cầu xin: "cho hết mọi loài thọ sinh (…) biết phụng thờ Chúa là Đấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng".

Để được vào, chúng ta phải phấn đấu. Nếu Đức Kitô Vua đã chiến đấu cho đến chết, thì các thần dân cũng phải chiến đấu. Vì thể chế xã hội loài người không muốn Đức Kitô cai trị trên họ nên họ chiến đấu chống lại Đức Kitô.

Nếu chúng ta là thần dân của Đức Kitô, chúng ta phải cầm vũ khí tốt để chiến đấu, vũ khí ấy là: tình yêu, chuyên cần cầu nguyện, siêng năng lãnh nhận các bí tích, sự chúc lành của Thiên Chúa chỉ cho chúng ta trước cuộc chiến đấu, biết chiến thắng cuối cùng của Thiên Chúa và của Đức Kitô trên mọi sức mạnh của sự dữ.

Chúng ta chỉ còn đặt mình dưới sự hướng dẫn của Vua Kitô, sống trung thành với Người như những tôi tớ, can trường trong đức tinh, nhiệt thành trong đức mến, để một ngày kia, chúng ta có thể nghe Vua Kitô nói với chúng ta rằng: "Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ" (Mt 25, 34).

Chắc một điều là Chúa đến phán xét mọi người. Nhưng "đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến" (2Tim 4,8), thì Người sẽ là Ðấng Cứu độ và là vinh quang. Còn khi chúng ta từ chối lẫn nhau và quay lưng trước những bất hạnh tinh thần và thể xác của anh em đồng loại thì cũng là lúc chúng ta rời xa Chúa Giêsu, rời xa Thiên Chúa trong ngày sau hết.

Lạy Chúa Giêsu Vua Tình Yêu, là Vua trên hết các vua, Chúa các chúa, Vua của vũ hoàn. Chúng con cùng với muôn loại thụ tạo cung chúc tôn thờ và cảm tạ. Xin cho đời chúng con thành lời ca ngợi, luôn làm theo ý Vua vũ hoàn với cả tình yêu, nhiệt thành phục vụ Chúa và tha nhân. Lạy Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, xin dâng Chúa quyền lực, vinh quang và danh dự cho Thiên Chúa Cha đến muôn đời. Amen.

 

35. Sống với mọi người

Chúa nhật cuối cùng cùng của năm phụng vụ, cũng chính là Chúa Nhật nói đến ngày Chúa đến trong vinh quang, nói đến ngày phán xét. Ngày đó sẽ được hiển hiện rõ người tốt hay xấu, lành hay dữ, thiện hay ác một cách rõ ràng. Tiêu chuẩn để phân xử là tất cả những gì chúng ta đã thực hiện cho những anh chị em hằng ngày chúng ta gặp gỡ. Vậy chúng ta đã làm gì và chúng ta đã sống thế nào?

Có thể chúng ta là những người bé nhỏ mà Chúa Giêsu nhận đó là chính Ngài, vì hằng ngày chúng ta cũng có nhu cầu cần đến sự giúp đỡ, sự cảm thông của người khác. Những sự trợ giúp mà chúng ta nhận được từ người khác thuộc cả về phương diện vật chất, tình cảm cũng như tinh thần. Những nhu cầu đó đôi khi cũng rất quan trọng, vì nó giúp chúng ta được vui sống.

Rồi sự giúp đỡ của người khác dành cho chúng ta cũng có nhiều loại như khi chúng ta cần phải hỏi đường đi trong một nơi mà chúng ta chưa quen biết; khi chúng ta cần một lời chỉ dẫn, một lời an ủi, một nụ cười hay một cái nhìn thông cảm của người khác. Khi chúng ta lỡ đường và ghé vào nhà một người quen và được họ tiếp đãi cho cơm ăn cho chỗ nghỉ đêm. Khi chúng ta không may bị hư xe giữa đường và được người khác dừng lại giúp đỡ. Khi chúng ta đang đứng trước quầy trả tiền mà bị thiếu một vài ngàn và được người khác cho mượn. Khi chúng ta đang thất nghiệp mà được bạn bè giới thiệu việc làm…. Những cơ hội đó chính là những niềm vui cho cuộc sống.

Rồi cũng có những lúc chính chúng ta lại là những người làm ơn. Chắc chắn không nhiều thì ít chúng ta cũng đã có và sẽ còn tiếp tục có những nghĩa cử nhân ái với người khác. Đi đến hoặc gởi đi một cánh thư chia buồn với tang quyến của người quá cố, tới bệnh viện thăm người đau yếu hay đến nhà dưỡng lão an ủi những người già yếu, khuyến khích một người bạn đang có tâm sự buồn, trao cho người ăn xin một vài ngàn hay mua cho họ một chiếc bánh, một ly nước, giúp đỡ người lâm nạn trong hoàn cảnh khó khăn. Dành thời giờ để tiếp một người cần đến chúng ta. Tất cả những việc đó đều là những việc bác ái sẽ được Thiên Chúa nhìn nhận.

Trong thực tế có rất nhiều sự hy sinh, co nhiều cử chỉ cao thượng như việc săn sóc bệnh nhân, thăm nom người đau yếu, việc giúp đỡ những người nghèo, bênh vực cho những người bị áp bức, chia sẻ cho những ai đang gặp những hoàn cảnh khó khăn, thăm hỏi những tù nhân …việc làm đó của chúng ta được Chúa nhìn nhận là làm cho chính Ngài, như trong bài Phúc âm hôm nay có nói tới.

Ngược lại, cũng không ít lần chúng ta dửng dưng thờ ờ, để đến nỗi Chúa đã phải trách: "khi Ta đói ngươi đã không cho ăn; Ta khát các ngươi không cho uống. Ta là khách lạ các ngươi chẳng tiếp rước, Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc. Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta đâu." Đó chính là lời cảnh tỉnh với những ai còn đang vô tình, vô tâm để họ biết đem tình yêu và lòng bác ái đến với mọi người.

Lạy Chúa, xin cho con biết sống theo lời kinh hòa bình mà mỗi ngày giáo phận chúng con vẫn luôn hát vang: “biết đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem niềm vui đến chốn u sầu”. Amen.

 

36. Những người được chúc phúc

(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)

Đây là dụ ngôn cuối cùng trong loạt các dụ ngôn nói về việc Chúa đến bất ngờ; và do đó phải luôn luôn sẵn sàng (24,36-25,46). Đây cũng là giáo huấn cuối cùng của Chúa Giêsu cho các môn đệ trước khi tin mừng Matthêô bước sang trình thuật Thương Khó. Về bố cục của đoạn 25,31-46, có thể phân chia như sau: - Bối cảnh buổi phán xét cuối cùng (25,31-33); - Đối thoại trong ngày phán xét chia làm hai phần: - Giữa thẩm phán với người bên phải (25,43-40) và - với những người bên trái (25,41-45); - Kết luận về số phận đối nghịch của hai nhóm (25,46).

Hai cuộc đối thoại có cấu trúc tương tự nhau, gồm: - Tuyên bố của vị vua về ân thưởng và hình phạt của mỗi nhóm dựa trên những gì họ đã làm hoặc không làm (cc. 34-36 và 41-43); - Đáp lời của mỗi nhóm (cc. 37-39 và 44); - Kết luận của vị vua, kèm theo cụm từ “Quả thật Ta bảo các ngươi” (cc. 40 và 45). Các lời đối đáp giữa vị vua và mỗi nhóm mở đầu bằng, tote, “bấy giờ” (cc. 34.37.41.44.45).

Mỗi cuộc đối thoại có cấu trúc lập lại: mỗi nhóm lập lại gần như từng chữ lời tuyên bố của vị vua: “đói/cho ăn”, “khát/cho uống”, “khách lạ/ tiếp đón”, “trần truồng/ chommặc”… (c. 35-36) – “đói/nuôi dưỡng”…. (c. 37-39). (x. W.D.Davies - D.C.Allison, The Gospel According to Saint Matthew. A Critical and Exegetical Commentary (ICC; Edinburgh: Clark, 1988, 1991, 1997) III, p. 416). Như thế các việc làm hay không làm cho Chúa được lập lại đến bốn lần. Và càng về sau, chi tiết càng được rút ngắn lại.

Bối cảnh buổi phán xét cuối cùng (cc. 31-33)

Trong ba câu dẫn nhập, Matthêô trình bày quang cảnh Con Người đến. Quang cảnh nầy gồm những yếu tố đã gợi lên trong tin mừng Matthêô trước đây (10,23; 13,41.49-50; 16,27-28; 19,28; 24,30-34; x. Đan 7,13-14). Đặc điểm của phần dẫn nhập nầy là các động từ ở thì tương lai. Chỉ những sự việc sẽ xảy ra trong ngày phán xét sẽ đến. Trong dẫn nhập nầy Matthêô không nói gì đến “lúc nào” Chúa đến (x. 24,36), mà chỉ trình bày ý nghĩa của việc Người đến. Quang cảnh nầy nhấn mạnh vinh quang của Con Người. Người “ngồi trên ngai”, “trong vinh quang của Người”, và “các thiên thần bao quanh Người”. Người thi hành quyền phán xét trên các dân tộc như một mục tử tách chiên ra khỏi dê. “Vinh quang của Người” (19,28) hay “trong vinh quang của Người” (c. 31[2x]) thật ra không phải vinh quang của riêng Người, mà là “vinh quang của Cha Người” (x. 16,27). Tính từ sở hữu autou, “của Người”, được dùng để nhấn mạnh tính cách Kitô trong cuộc hiển lâm nầy. Vị trí “ngồi trên ngai” là vị trí của một vị vua, và từ “ngai vinh quang của Người” Người thực hiện việc phán xét các dân tộc.

Ethnos, “dân tộc”, và cũng có nghĩa là “người-không Do thái”, rồi sau nầy “người-không Kitô hữu”. Khó có thể tưởng tượng có hai cuộc phán xét, một cho mười hai chi tộc Israel (19,28) và một cho muôn dân (25,31-32). Con Người chỉ đến một lần và trong lần ấy Người phán xét mọi dân tộc, trong đó có cả dân Israel. Vậy panta ta ethnè (c. 33) chỉ cách chung mọi dân trên mặt đất; hay nói cách khác là mỗi người, hekatos, như trong một lời tiên báo khác về việc ngự đến và phán xét của Con Người (16,27). Điều nầy có lẽ phù hợp hơn cho việc giải thích đoạn kế tiếp khi nói đến việc đối xử bác ái với “từng người anh em hèn mọn” (c. 40). Việc phán xét mang tính cách cá nhân. Việc nầy được hình tượng hoá qua hình ảnh phân tách chiên ra khỏi dê. Trong Do thái giáo “bên hữu” được quan niệm là bên tốt lành mang lại phúc lành; còn “bên tả” là bên xấu và bị chúc dữ.

Đối thoại trong ngày phán xét (cc. 34-45)

Con Người đang ngồi trên ngai được gọi là “Vua”, basileus. Những đoạn trước đã nói đến vai trò phán xét của Con Người (x. 13,41-43; 16,27). Chúa Giêsu với tư cách là vua khi Người phán xét. Nhiều lần trong Matthêô nói đến Người với tước hiệu là “Vua” (2,2; 21,5; 22,11; 27,11.29.37 và 42), và cũng nói về vương quốc của Người (13,41; 16,28; 20,21). Deute, “Hãy đến”, nhắc nhớ lời mời của một vị vua sai các đầy tớ đi nói với những người đã được mời đến dự tiệc cưới đã sẵn sàng (22,4). Và giữa những “người được chúc phúc, eulogèmenos, của Chúa Cha”, Chúa Giêsu là người đầu tiên được gọi bằng tên nầy (x. 21,9; 23,39). Người được hưởng vinh quang Nước của Cha Người trước tiên. Động từ khèronomeò, “thừa hưởng” xuất hiện 3 lần trong Matthêô (5,5; 19,29; 25,34), và đều có Nước Trời hay sự sống đời đời làm đối tượng. Về việc thừa hưởng Nước Trời xem 5,19-20; 7,21; 8,11... Nước Trời nầy hoặc chỗ trong Nước Trời đã được do chính Chúa Cha chuẩn bị (thành ngữ tương tự trong 20,23), “từ lúc tạo thành vũ trụ” (25,34; thành ngữ tương tự trong 13,35). Như thế, trong việc ân thưởng cho những người được chúc phúc, mục đích cứu độ của Thiên Chúa được viên thành.

Tiếp theo là cuộc đối thoại với những người bên hữu (cc. 34-40). Chúa Giêsu kể ra những việc họ đã làm. Các động từ ở thì bất định (aorist) chỉ các hành động tốt họ đã được thực hiện rồi trong đời của họ (cc. 35-39). Chính Chúa Giêsu đồng hoá với những người có thiếu thốn nầy; bởi đó những ai làm những việc nầy được kể là “những người được chúc phúc”. Các việc bác ái nầy được nói nhiều đến trong Cựu Ước (Is 58,7; Ezk 18,7.16; Gióp 22,6-7; 31,17.19.21.31-32; Tob 1,16-17; 4,16; Sir 7,34-35). Những điều được nêu ra là những nhu cầu căn bản của sự sống.

Những người đứng bên hữu được gọi bằng một tên khác nữa là “những người công chính”(c. 37.46). Họ đã không biết là họ đã làm cho chính Chúa Giêsu khi họ giúp đỡ những người thiếu thốn. Do đó họ đã đặt ra một lần ba câu hỏi: “Có bao giờ chúng tôi thấy…” (cc. 37-39). Những câu hỏi nầy cũng sẽ được lập lại, ngắn gọn hơn, nơi những người đã không giúp đỡ những người thiếu thốn (c. 44). Cả hai nhóm người đã làm điều tốt hay đã không làm điều tốt, đều không biết Chúa Giêsu đã đồng hóa mình với những người thiếu thốn. Điều nầy muốn nói việc nhận biết Chúa Giêsu và tin vào Người là yếu tố thiết yếu và không thể thiếu để được vào Nước Trời.

Chúa Giêsu đưa ra nguyên tắc, trung tâm của trình thuật, bắt đầu bằng công thức trang trọng “Quả thật, Tôi nói cho anh em”, “những gì các ngươi đã làm cho một người trong các anh em hèn mọn nhất này của Tôi, là các ngươi đã làm cho chính mình Tôi” (c. 40). Ai là “người anh em hèn mọn nhất của Tôi?” Trong tin mừng Matthêô “Anh em của Tôi” chỉ các môn đệ của Người (12,48-49; 28,10). Đàng khác, những người “hèn mọn”, oi mikroi, thường chỉ các môn đệ (18,6.10.14). Và chính câu 10,42 xác nhận “những người bé mọn nhất” là các môn đệ của Chúa Giêsu khi Người quả quyết một chén nước cho các môn đệ của Người sẽ không mất phần thưởng sau nầy. Hơn nữa trong mạch văn ấy, Chúa Giêsu đã đồng hoá trọn vẹn giữa Người và các môn đệ của Người (10,40tt).

Đối thoại với những người bên tả (cc. 41-45). Ý tưởng của những lời Chúa Giêsu nói trong phần nầy tương tự như trong cc. 34-40, và dưới dạng phủ định (7 mệnh đề). Đồng thời, có những từ ngữ và cụm từ đối nghĩa so với đoạn trước: “Các ngươi hãy đi khỏi mặt Ta” (“hãy đến” trong c. 34), “những kẻ bị chúc dữ, katèramenoi, (“những người được chúc phúc” trong c. 34). Trong câu 41 có những bất đối xứng so với câu 34: Matthêô tránh không nói “những kẻ bị Cha Ta chúc dữ” (so sánh “những người được Cha Ta chúc phúc”), và không nói “lửa đời đời được chuẩn bị sẵn từ tạo thiên lập địa” (so sánh “Nước Trời đã được chuẩn bị từ tạo thiên lập địa”), bởi vì Thiên Chúa không tạo dựng con người để hủy diệt nó.

Danh sách các việc tốt như trong các câu 35-36 được nhắc lại, nhưng được rút ngắn lại. Những người thuộc nhóm bên tả nầy đã không làm cho Chúa Giêsu đúng những điều mà những người công chính đã làm. Lần nữa Chúa Giêsu khẳng định qua những việc làm cụ thể tương quan mật thiết giữa Người với những người thiếu thốn. Trong câu 41, nhóm người bên tả nầy tóm lại những việc đáng lý họ phải làm cho Chúa Giêsu trong động từ diakoneò, “phục vụ”. Họ đã không phục vụ, nghĩa là đã không giống như Người (20,28), và không được chúc phúc như Người và nhóm người bên hữu.

Lời của vị vua kết thúc ở câu 45, và sau cùng là lời của thánh sử (c. 46). Lời kết nầy lập lại lời của Chúa Giêsu trong hai câu 34 và 41 về việc thưởng/phạt cho hai nhóm người. Việc thưởng/phạt nầy mang tính cách đời đời, aiònios, “cực hình đời đời”, “sự sống đời đời”. Vậy trong ngày phán xét, người công chính và người bị chúc dữ sẽ được tách ra cách dứt khoát và đời đời.

Khi ngày phán xét cùng tận đến, mỗi người sẽ được phán xét theo việc họ đã làm mà trong tương quan với Chúa Giêsu. Khi đã ra trước mặt vị Vua thẩm phán số phận mỗi người, hoặc được chúc phúc hoặc bị chúc dữ, sẽ không bao giờ có thể thay đổi nữa.

 

37. Cuộc sống của chúng ta tuỳ thuộc vào Mt 25,40

Đây là một bài học khác về cái nhìn của Thiên Chúa trên cuộc sống của chúng ta. Ngài sẽ phán xét chúng ta như thế nào? Câu trả lời chứa đựng trong bản văn chính yếu này. Đây là tổng kết cuối cùng của tất cả mọi cuộc sống: ngày phán xét chung. Thiên Chúa sẽ xoay sở như thế nào trước công việc vĩ đại này? Ngài sẽ dùng máy vi tính phân tích các sử thi, các bi kịch, các tiểu thuyết cuộc đời cho đến vô tận hay sao? Ngài sẽ tổ chức những vụ kiện ngắn để cân nhắc lợi hại hay chăng? Đó không phải là điều Chúa Giêsu nói với chúng ta. Chúng ta có nguy cơ bối rối vì sự chọn lọc ngắn ngủi, sự nhanh chóng của các mục xét xử và sự đơn giản của câu: “Ta đói, ngươi đã cho Ta ăn, hãy vào hưởng sự vui vẻ”.

Chúng ta hãy đánh giá đúng hoàn cảnh: đây là lời răn dạy cuối cùng của Chúa Giêsu và nỗ lực tối hậu của Ngài để đặt chúng ta trước điều cốt yếu. Biết bao lần Ngài nhấn mạnh đến nguy cơ chúng ta trở thành kẻ ngập ngừng: chúng ta tưởng tượng ra những điều tốt đẹp chúng ta sẽ làm... thế rồi chúng ta lại không làm.

Ngài biết chúng ta có khuynh hướng thoát ra khỏi những bó buộc cụ thể của tình yêu bằng những xung khắc dài và những mơ mộng: “Chỉ cần yêu thương... Sống yêu thương... Làm thế nào gặp Chúa nơi anh em chúng ta... Làm thế nào thấy Chúa Kitô nơi người nghèo nhất...”. Tốt, rất tốt. Nhưng sẽ đến một ngày nào đó bị tước mất những lời nói chúng ta sẽ trần truồng trước những hành vi của chúng ta. Bạn có hành động khi một người hay tập thể cần đến bạn? Đó là sự chọn lựa những người được chúc phúc và những kẻ bị nguyền rủa. Đó là sức nặng thực sự của cuộc sống của một con người và việc phán xét xem người đó có đáng sống đời đời hay không.

- Ngươi, ngươi hăng hái lao vào giúp đỡ khi có dịp: hãy đi vào Nước Trời... Ngươi, ngươi tránh né biết bao việc phải làm: hãy đi xa khỏi Ta.

- Nhưng lạy Chúa, con đã thực sự muốn gặp Ngài, sống với Ngài, sống vì Ngài.

- Ngươi đã làm gì cho anh em ngươi?

- Con thề với Chúa nếu con đã biết rằng...

- Ngươi đã làm gì?

Mỗi lần chúng ta nghĩ về việc gặp Chúa Giêsu, một cú bấm máy sẽ phải làm bừng sáng trước mắt chúng ta, như một tấm áp phích sáng chói, câu Matthêu 25, 40 mà cuộc sống chúng ta noi theo: “Mỗi lần ngươi làm điều tốt cho một trong những người bé mọn nhất trong số các anh em của Ta thì chính là ngươi đã làm cho Ta vậy”.

Điều vĩ đại trong việc gợi ra ngày Phán xét phải làm cho chúng ta hiểu giá trị của cử chỉ nhỏ nhặt nhất của tình yêu thương. Cuối cùng, có một điều quan trọng đó là điều chúng ta thực sự làm để cứu giúp một hoàn cảnh nguy khốn. Danh sách những việc được Chúa Giêsu lấy lại không ngừng kéo dài ra: “Ta mù chữ và ngươi đã dạy Ta học... Ta bị tàn tật và ngươi, một kiến trúc sư, đã nghĩ đến việc xây dựng những căn hộ có thể đến ở được... Ta là một kẻ tị nạn và ngươi đã đón tiếp Ta”.

Duy chỉ trên những con đường này người ta mới gặp Chúa Kitô Vua. Nước Trời của Ngài là một thế giới gồm những ngừơi cần được giúp đỡ và những người sẵn lòng giúp đỡ. Mỗi lần chúng ta giúp đỡ tức là chúng ta chọn Chúa Giêsu làm Vua của chúng ta.

 

38. Chúa Giêsu, Vua Tình yêu.

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Hôm nay Chúa nhật cuối cùng trong năm phụng vụ, Giáo Hội mừng kính lễ Chúa Kitô Vua. Năm phụng vụ mở đầu bằng mầu nhiệm Nhập thể, khai triển qua cuộc tử nạn, Phục sinh để rồi kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Như vậy, năm phụng vụ tượng trưng cho chu kỳ thời gian bắt đầu từ Đức Kitô và cuối cùng trở về với Ngài. Đức Kitô chính là khởi đầu và là cùng đích của vũ trụ và lịch sử nhân loại.

Đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, của lịch sử nhân loại và Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta.

Chúng ta phải hiểu tước hiệu Vua Kitô như thế nào? Và việc tuyên xưng Đức Kitô là vua mang lại ý nghĩa gì cho cuộc sống người Kitô hữu?

1. Ông vua trong lịch sử loài người

Sau thế giới đại chiến lần thứ I, chế độ Vua cai trị, thường gọi là chế độ Quân chủ, không còn nữa. Chỉ còn mấy ông vua bà hoàng để bày cho đẹp, như ở Thái Lan, Anh Quốc, Nhật v.v. nhưng thực quyền của họ không có gì cả. Những người trẻ hôm nay, qua sách vở, khó hình dung rõ nét thế nào là một ông vua.

Trong lịch sử loài người có một số ông vua tài giỏi về đánh giặc cũng như về cai trị, nhưng hầu hết các ông vua, vì cha truyển con nối, nên độc tài độc đoán, không có khả năng trị quốc an dân, chỉ biết hưởng thụ cho riêng mình, chẳng quan tâm đến sự lầm than đói khổ của bá tánh. Lịch sử Trung Hoa, các ông vua còn tự xưng mình là Thiên tử, là con ông Trời, bắt ai chết thì người đó phải chết, cho ai sống thì người đó được sống (Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung). Các vua Lamã thì xưng mình là Thần, ngang với Thượng đế.

Nhìn chung, các vua trần gian thì ích kỷ, dâm ô. Khi họ đã nắm được ngai vàng thì coi mọi người như bầy tôi, giang sơn đất nước thì cho là tài sản riêng của mình. Vua thường nói: “Thần dân của trẫm. Giang sơn của trẫm”. Thế rồi khư khư giữ lấy. Nghi ngờ kẻ nào có ý phản loạn thì giết ngay tức khắc, không chỉ giết một người đó, mà còn tru di cả tam tộc cửu tộc nữa.

Nếu muốn đổi triều đại, vua của dòng họ này sang triều đại dòng họ khác, thì phải giành giật, phải thoán ngôi. Cứ đọc lịch sử Việt Nam thì thấy, mỗi thay đổi triều vua từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, toàn là máu và nước mắt. Đến đời Nguyễn Ánh tự xưng là Gia Long hoàng đế, làm vua từ năm 1802, cha truyền con nối kéo dài hơn 100 năm, cho đến năm 1945, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn là Bảo Đại. Vua này vì sợ Việt Minh Cộng sản giết chết nên mới thoái vị.

2. Ông vua trong Kinh Thánh

Vào khoảng thế kỷ thứ 11 trước Chúa Giáng sinh, dân Israel đòi có vua cai trị giống như các dân khác, Giavê Thiên Chúa (qua ngôn sứ Samuel), đã cảnh cáo dân rằng:

Ba vị vua đầu tiên của Israel là Saul, Đavid, và Salomôn.

Về Saul thì Thiên Chúa nói: “Ta hối tiếc vì đã đặt Saul làm vua, nó đã quay lưng lại Ta.” (1S 15: 10).

Về Đavid, Thiên Chúa nói: “Chính Ta đã xức dầu tấn phong ngươi làm vua Israel... Tại sao ngươi dám khinh màng lời Đức Giavê... ngươi đã lấy gươm đâm Uria, người xứ Hitit và đoạt lấy vợ nó làm vợ ngươi.” (2S 12: 9).

Còn Salômôn, vị vua có 700 vợ và 300 hầu thiếp (1V 11: 3). Ông đã bỏ Đức Chúa Giavê để thờ tà thần của các vợ. Giavê phán với Salômôn: “Bởi ngươi đã nên thể ấy nơi ngươi... Ta sẽ giựt lấy vương quyền của ngươi.” (1V 11: 11).

Trong Tân Ước cũng nhắc đến một ông vua rất tàn ác, đó là Hêrôđê. Kinh thánh nói: “Bấy giờ Hêrôđê tức cuồng lên, sai quân giết hết cả trẻ em ở vùng Belem, từ hai tuổi trở xuống. (Mt 12: 6).

3. Đức Giêsu Kitô Vua

Giáo Hội suy tôn Đức Giêsu là Vua, không phải chỉ của thế giới này, mà của toàn vũ trụ. Ngài không bao giờ làm vua theo kiểu các vua chúa ở trần gian, cũng không bao giờ làm chủ một lãnh vực kinh tế nào. Ngài là Vua theo một nghĩa hoàn toàn khác.

Vì thế, ngày lễ Chúa Kitô Vua mang màu sắc đầy vinh quang chiến thắng, Giáo Hội lại nêu cao biến cố đau thương Chúa chịu chết treo trên thập giá.

Các sách Tin Mừng đã đặt lễ đăng quang của Chúa Giêsu trong chính cuộc tử nạn của Ngài. Khởi đầu là cuộc khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem, trong đó Chúa Giêsu đã ngồi trên lưng một con lừa con. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu đã khẳng định rằng Ngài là Vua, nhưng Ngài là Vua không theo các cung cách của vua chúa trần gian. Tất cả bản án của Chúa Giêsu đều xoay quanh tước hiệu Vua của Ngài.

Chúa đã trả lời với tổng trấn Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Câu trả lời ấy cho chúng ta biết: Nước Chúa không thuộc về thế gian, có nghĩa là bất cứ nước nào, bất cứ chế độ nào, với nền văn minh nào, cũng không thể đồng hóa với nước Chúa. Nước Chúa ở trong các tâm hồn, những tâm hồn khao khát sự thật, tôn trọng sự thật, và nhất là đón nhận sự thật. Sự thật đó là tình yêu cứu độ Chúa Giêsu đem đến.

Vậy, tất cả những ai đón nhận tình yêu cứu độ đó, họ sẽ được nhận vào Nước Chúa. Khi Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá, những người chứng kiến đã có những thái độ khác nhau: có kẻ xót thương, có người lãnh đạm vô tình, có kẻ thách thức, nhục mạ, nhưng cũng có người nhận ra Chúa và tin tưởng Chúa. Đó chính là người trộm lành. Anh không dám thách thức Chúa như người trộm khác cùng bị đóng đinh với anh hay như những người vô lễ khác, nhưng anh biết tội mình và suy đoán rằng vương quyền mà Chúa liều chết vì nó phải là một vương quyền tốt đẹp vô lường nên anh kêu xin Chúa cứu vớt để được đưa vào vương quốc ấy. Đúng vậy, giữa đám đông mù quáng, ngược ngạo, ít ra cũng còn một tâm hồn ngay tình. Đó là người trộm lành trong một hoàn cảnh thật bi đát bị treo trên thập giá, anh đã biết nhận tội của mình và nhìn nhận sự vô tội của Chúa Giêsu. Giữa lúc mọi người đều bỏ rơi Chúa, đã quên hết những phép lạ, những lần đi theo Chúa lúc Ngài được tôn vinh, người trộm đã nhận ra vương quyền của Chúa và tuyên xưng đức tin của mình bằng một lời van xin đầy hy vọng sâu xa: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Lời cầu nguyện khiêm hạ của anh đã mở được cửa vương quốc đó cho anh.

Hiện nay trên thế giới khoảng 2,5 tỷ trên 7 tỷ người là Kitô hữu thuộc nhiều giáo phái khác nhau (Công giáo, Tin Lành, Chính Thống…). Họ là những người theo Ngài, làm môn đệ Ngài, đồng thời nhìn nhận Ngài là lẽ sống, là gương mẫu hoàn hảo nhất cho cuộc đời mình, và coi giáo huấn của Ngài là kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Họ theo Ngài chủ yếu không phải vì giáo huấn của Ngài cao siêu, vì nhân cách của Ngài đáng phục nhất (mặc dù họ tin đích thực là như vậy). Họ theo Ngài vì họ tin Ngài là Con Thiên Chúa, là thần linh cao cả vô cùng, lại là người yêu thương họ hơn bất kỳ ai khác trên đời, yêu họ đến nỗi sẵn sàng đau khổ và chết cho họ. Nhất là Ngài là người duy nhất có thể đem lại hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu cho họ.

Thật vậy, còn gì vương giả cho bằng khi Ngài cầu nguyện với Thiên Chúa Cha để xin ơn tha thứ cho những kẻ đã làm hại Ngài. Chúa Giêsu là Vua của Tình Yêu, chính tình yêu là sức mạnh của Ngài và cũng chính tình yêu ấy đã khiến cho Ngài tuyên bố: “Khi nào Ta chịu treo trên thập giá, Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta”.

Qua hơn 2000 năm, lời ấy vẫn mãi được ứng nghiệm. Ngoài Đức Kitô ra không có một vị vua nào trên trần gian này được nhân loại chọn làm trọng tâm của lịch sử. Chấp nhận hay không chấp nhận, tin hay không tin, ai cũng phải lấy Đức Giêsu làm cái mốc để tính thời gian. Có một thời gian trước Đức Kitô và có một thời gian sau Đức Kitô và dù có tránh tên của Ngài để nói trước hay sau Công nguyên thì con người nói như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: “Con người sẽ không bao giờ loại bỏ Đức Kitô ra khỏi lịch sử của mình”. Đức Kitô đang lôi kéo mọi người về với Ngài, Ngài đang đồng hành trong lịch sử nhân loại và trong cuộc đời của mỗi người. Cuộc đời này có giá trị và ý nghĩa hay không là tùy thuộc ở thái độ tiếp nhận của mỗi người đối với Đức Kitô.

Tiếp nhận Ngài và tuyên xưng Ngài là Vua chính là mặc lấy thái độ tín thác của kẻ trộm lành, sẵn sàng trao phó tất cả cuộc đời trong tay Ngài và bước đi theo Ngài. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là đi theo con đường của phục vụ và phục vụ cho đến cùng. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là cùng với Ngài xây dựng vương quốc của Ngài ngay trên trần gian này, vương quốc của huynh đệ, vương quốc của yêu thương, vương quốc của công lý và hòa bình. Và mỗi một lần chúng ta xây dựng vương quốc ấy bằng một cữ chỉ yêu thương thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ nghe được lời hứa của Ngài cho người trộm lành: “Hôm nay đây con sẽ ở cùng Ta trong vương quốc của Ta”.

Mỗi người tự xét mình xem Đức Giêsu đã thật sự là Vua của chính bản thân ta chưa, nghĩa là Ngài đã chiếm trọn vẹn trái tim ta chưa, đã thật sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của ta chưa, có lẽ rất nhiều người sẽ phải ngập ngừng, hoặc phải trả lời chưa!. Ngài là vua của tâm hồn ta, hay là tiền bạc, quyền lực, danh vọng, địa vị, lạc thú, hoặc chính bản thân ta?

Nếu Ngài chỉ là Vua của thế giới, của vũ trụ, mà không phải là Vua của tâm hồn ta, thì việc tuyên xưng Ngài là vua có ích lợi gì cho ta? Tuyên xưng thật mạnh mẽ trên lý thuyết, mà thực tế đời sống của ta lại chứng tỏ trái ngược lại, thì sự tương phản ấy chỉ cho thấy sự giả dối hay giả hình của ta thôi! Tôi rất thích lời của Tổng thống Bush: “Show, but don’t tell!”: Hãy chứng tỏ (bằng thực tế, bằng hành động) chứ đừng nói suông!

Trong ngày sau cùng, khi Đức Giêsu phán xét chúng ta như vị Vua của vũ trụ, Ngài chỉ xét chúng ta những điểm rất thực tế: ta đã thực hành ý muốn của Ngài như thế nào? nhất là đã yêu thương và đối xử với Ngài như thế nào qua hiện thân của Ngài là những người chung quanh ta? Ngài có phải là Vua đích thực của chính bản thân ta không?

Thiết tưởng việc sống đạo của chúng ta cần phải xây dựng trên căn bản là thực tế của đời sống, chứ không phải trên lời nói, lý thuyết, sách vở. Có như thế chúng ta mới là “người khôn ngoan xây nhà trên đá”. (Mt 7,24).

 

39. Để được yêu hơn

“Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,40)

“Sẽ có phán xét chung vào ngày Chúa Kitô trở lại trong vinh quang. Lúc ấy, tất cả mọi người sẽ trình diện trước tòa Chúa Kitô để trả lẽ vể các hành vi của mình” (Giáo lý Hội thánh công giáo). Điều xác tín này chắc chắn là không sai lầm. Mặc dù, đó là ngày nào thì không ai được biết nhưng điều gì sẽ xảy ra trong ngày đó thì đã được nói quá rõ ràng. Đức Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang của Người “khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu…” (Mt 25,31). Người sẽ ngồi trên ngai của Người và theo lẽ chính trực mà xét xử, mà “tách chiên ra khỏi dê”. Ngày ấy Thiên Chúa không hỏi Ta có bao nhiêu hecta đất, giữ chức vụ gì trong xã hội, nói được mấy thứ tiếng hay học hàm, học vị thế nào. Nhưng điều Ngài đặt nặng nhất là “món nợ yêu thương”, là anh đã làm được gì cho đồng loại của mình.

Như Thiên chúa yêu thương. Đức Giêsu cũng muốn con người hãy yêu thương nhau. Trong đó đối tượng được chú ý đặc biệt là những “kẻ bé mọn” tức là những ai xét thấy là cần phải được nâng đỡ trên mọi lãnh vực. Ở đây cụ thể có sáu loại việc: đói cho ăn, khát cho uống; lỡ đường cho nương trọ; trần truồng cho mặc, bệnh tật thì thăm viếng, tù đày thì ủi an. Tất nhiên còn nhiều điều khác nữa. Kể cả là sự giúp đỡ về tinh thần, bảo vệ công lý, xây dựng hoà bình… Thiên Chúa muốn chúng ta thương yêu người khác rồi chính Ngài lại là người đứng ra trả ơn cho chung ta. Đây mới chính là điều không ai ngờ tới. Thật vậy, khi làm điều thiện tức là chúng ta không những làm theo lời dạy của Chúa mà còn diễn tả cách sống động tình thương của Thiên Chúa tại trần gian này. Tuy nhiên, không phải Thiên Chúa ham danh lợi, muốn được mọi người biết đến lòng quảng đại của mình. Thiên Chúa không như con ngươì, và Ngài cũng chẳng cần phải muốn thế để làm gì. Điều quan trọng là Ngài muốn con người biết yêu thương, biết chia sẻ cho nhau, nâng đỡ nhau trên cuộc đời vốn đã quá khó nhọc nầy. Và yêu thương chính là tiếng nói mạnh mẽ nhất của người con biết nghe lời, “yêu thương là chu toàn lề luật” (Ga13,35). Mặc khác, trong trách nhiệm liên đới, “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, chúng ta đâu thể dửng dưng trước nỗi thống khổ của đồng loại.

Có lẽ bạn không phủ nhận rằng, bạn cũng có nhu cầu được yêu thương. Vậy nếu bạn thực hành việc yêu thương với người khác cũng là hợp lý thôi. “muốn ăn phải gắp cho người” mà. Kẻ dữ làm sao biết yêu thương và khi hành động thiếu bác ái là ta không muốn yêu thương nơi chính bản thân mình. Như vậy, nếu có phải chịu hình phạt trong lửa hoả ngục cũng không là điều ngạc nhiên.

Hơn nữa, đây còn là chuyện làm cho chính Chúa. Làm cho con người mà Thiên Chúa trả công thì còn mong ước gì hơn.

Muôn thuở Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta bất luận chúng ta tốt xấu. Tuy vậy, một khi chúng ta làm theo lời dạy của Chúa, chúng ta sẽ được Thiên Chúa yêu thương nhiều hơn. Vậy, có lý do gì để bạn khước từ tình thương và hạnh phúc đã dành sẵn cho người biết lắng nghe và thực hành lời Chúa?

“Phần gia nghiệp” chỉ dành cho những ai biết sống tinh thần Phúc Âm.

 

40. Đức Giêsu, Vua Niềm Tin

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

Nói đến sức mạnh, chúng ta tự nhiên sẽ nghĩ đến những chàng trai võ sĩ thân hình lực lưỡng, cân đối rắn chắc,với những bắp thịt vạm vỡ, với những quả đấm thôi sơn ngàn cân. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng nghĩ đến những trận bão táp, những cơn lũ lụt phá đổ cây cối nhà cửa làng mạc, đê điều, đường sá, cầu cống. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng thường nghĩ tới những đám cháy lớn thiêu rụi cả một khu rừng, thiêu huỷ các tầng lầu,hoặc động đất san bằng nhiều thành phố, giết hại hàng triệu người trong vài giây đồng hồ. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng liên tưởng đến những cuộc chiến tranh hoặc chiến tranh thế giới giết hại bao sinh mạng, tàn phá bình địa nhiều thành phố làng mạc nhà cửa dinh thự đền đài. Nhưng có lẽ nhiều người trong chúng ta quên rằng, còn có một sức mạnh vạn năng khác, mãnh liệt hơn cả, quyết thắng tất cả nhưng lại luôn luôn ở trong tầm tay của mình. Đó chính là sức mạnh niềm tin tôn giáo. Niềm tin tôn giáo không thể nào bị bóp nghẹt do bất cứ quyền lực nào. Không có quyền lực nào, không có luật pháp nào có thể xoá được những gì đã ăn rễ sâu trong lòng người, không thể nào loại bỏ được niềm tin tôn giáo.(x.nguoitinhuu.com; Lm Trần quý Thiện).

Trước toà án Philatô, Đức Giêsu đã biểu lộ sức mạnh niềm tin tôn giáo “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho Ngài” (Ga 18,11). Tin vào Sự Thật, mà “Sự thật sẽ giải thoát các con”cho nên Đức Giêsu đã khẳng định: “Tôi sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”(Ga 18,37). Bởi vì “Ta là đường,là sự thật và là sự sống”.

Kết thúc năm phụng vụ, tận cùng của thời gian,Giáo hội suy tôn Đức Giêsu – Vua Vũ Trụ - Vua Niềm Tin. Đức Giêsu là vua không phải theo kiểu trần thế, cũng không theo nghĩa chính trị. Đức Giêsu là vua niềm tin, vua tình yêu.Vương quốc của Vua Giêsu là vương quốc của sự thật và “ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Nhiều lần Đức Giêsu đã khước từ làm vua theo kiểu trần thế. Vương quốc trần gian do con người thiết lập bằng sức mạnh, thường đem lại sự giàu sang và vinh quang. Đức Giêsu từ chối loại vương quốc huy hoàng do Satan đề nghị: Nếu ông quỳ gối thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông mọi vương quốc làm sản nghiệp. Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân Do thái muốn tôn Đức Giêsu làm vua, nhưng Ngài trốn lên núi. Khi trả lời cho những kẻ gài bẫy: chúng tôi có phải nộp thuế cho Xêza không? Đức Giêsu đáp: của Xêza hãy trả cho Xêza, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Đặc biệt trong phiên toà xét xứ, Philatô hỏi Đức Giêsu: Ông có phải là vua dân Do thái không? Đức Giêsu đồng ý nhưng xác minh: Nước tôi không thuộc về thế gian này (Ga 18,36).

Vương quốc Đức Giêsu là vương quốc sự thật thuộc thế giới niềm tin, thế giới tâm linh trong tâm hồn con người. Vương quốc đó hoàn toàn khác biệt với đế quốc của Xêza hay bất cứ đế quốc nào, chủ nghĩa nào. Nuớc của Xêza chỉ cai trị thể xác loài người, còn vương quốc Đức Giêsu chiếm trọn lòng người.Thế lực của Xêza là quân đội, khí giới, nhà tù. Sức mạnh vương quốc Đức Giêsu là niềm tin, là yêu thương, tha thứ. Dù rộng lớn, đế quốc Xêza cũng bị giới hạn, còn vương quốc Đức Giêsu vô biên, được thiết lập mọi nơi. Các triều đại phong kiến, các thể chế chính trị cũng đã và đang chấm dứt trong dòng thời gian như đế quốc của Xêza, chỉ còn vương quốc sự thật và niềm tin là tồn tại muôn đời.

Chính niềm tin tôn giáo dạy chúng ta rằng: mục đích tối thượng của các tôn giáo là hướng con người đến chân thiện mỹ.Qua không gian thời gian,trải qua bể dâu của lịch sử với những thao thức băn khoăn của kiếp người, con người luôn luôn tìm đến niềm tin tôn giáo. Con người tiếp nhận sự sống từ chính nguồn sống là Thiên Chúa như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt trời.Thiếu ánh sáng mặt trời thì không có sự sống trên trái đất. Cũng thế, không có Thiên Chúa thì không thể có sự sống.Thiên Chúa thông ban sự sống cho con người vì Thiên Chúa yêu thương con người.Thiên Chúa yêu thương mọi người ngay cả những ai chối bỏ và thù ghét Ngài.Con người là hình ảnh cao quý của Thiên Chúa.Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay thù địch, mỗi người đều là hình ảnhThiên Chúa. Chỉ xuyên qua niềm tin và tình thương con người mới đến được với Thiên Chúa. Với sức mạnh niềm tin, chúng ta khẳng định rằng: trên vạn nẻo đường của cuộc đời mỗi người, bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu Thiên Chúa luôn có mặt để hướng dẫn nâng đỡ chúng ta.

Khủng hoảng trầm trọng nhất của xã hội Việt Nam hôm nay phải chăng là khủng hoảng về niềm tin và ý nghĩa của cuộc sống?

Trong những ngày này, bên cạnh những thông tin u ám về triển vọng kinh tế quốc gia, cũng đồng thời diễn ra một làn sóng khiến niềm tin và tính đoàn kết xã hội bị tổn thương. Chế độ trong lúc bấp bênh, với những thất bại không thể hàn gắn một sớm một chiều về kinh tế, đang nỗ lực dẹp làn sóng chỉ trích với bàn tay sắt chế áp những tiếng nói đối lập. Một vài gương mặt cũ tiếp tục bị cầm tù, một số gương mặt mới bị bổ sung vào danh sách triệt hạ. Tuy nhiên, nhân dân quá mất niềm tin, thể hiện ở chỗ đồng tiền quốc gia giờ đây như một cục than bỏng tay mà giới có tiền muốn nhanh chóng đẩy đi, để ôm vào các tài sản có tính bền vững như vàng và bất động sản. Cú sốc lãi suất, tỷ giá, giá vàng và lạm phát đang diễn ra hiện nay sẽ là một cú thôi sơn vào chính quyền hiện tại. Định mệnh chông chênh. Khi lòng tin không còn, mọi tuyên bố của quan chức không còn sức nặng. Người Việt Nam đang thực sự mất phương hướng, làn sóng rút tiền khỏi ngân hàng, đem ký gửi niềm tin vào vàng và bất động sản, đang là mối hiểm họa cận kề đẩy Việt Nam xuống lề vực thẳm. Lãi suất ngân hàng ngày hôm nay đã lên tới mức báo động 18%, khiến người ta mơ hồ hình dung tới địa ngục tài chính thời năm 2008. (x.Blog Lãng ngày 12/11/2010). Ngoài chợ các thứ thực phẩm tăng vọt, thu nhập chả tăng đã thế thực phẩm lại toàn nhiễm chất nọ, chất kia. Đau nhất là yêu quê hương, mua gì cũng nhất quyết tìm hàng Việt Nam trừ cái gì Việt Nam không làm được mới mua của nước khác sản xuất (hạn chế mua hàng Trung Quốc), nay lại biết tin hàng Việt Nam là mua của Trung Quốc rồi dán mác Việt Nam vào. (x.Blog Người Buôn Gió, 17.11.2010).

Niềm tin không có tai, có mắt, có mũi, nhưng nó lại hiển hiện trên gương mặt, hoặc hạnh phúc rạng ngời của một cá nhân, một xã hội, hoặc chỉ còn là vẻ vô cảm, thờ ơ lạnh lẽo của cá nhân ấy, xã hội ấy…Giải cứu niềm tin xã hội Việt Nam hôm hay cần mọi chính sách, chủ trương lấy lợi ích người dân làm trọng. Chỉ cần các quy chuẩn pháp luật xã hội hãy thực sự công bằng, minh bạch, để người dân từ đó điều chỉnh hành vi, cách ứng xử. Sự giải cứu đó, không mất tiền. Nhưng cần rất nhiều đến tấm lòng, tấm lòng vì dân, vì lợi ích một dân tộc dân chủ, giàu mạnh, văn minh và văn hóa. (x.Kim Dung,bvnpost on 21.10.2010).

Con người sinh ra trên cõi đời này để làm gì và để đi về đâu? Đó là những câu hỏi lớn mà ngàn đời con người không ngừng đặt ra cho mình khi đứng trước những mâu thuẫn bất trắc của cuộc sống. Nghĩ cho cùng, mỗi người chỉ tìm thấy giải đáp cho câu hỏi ấy nhờ ánh sáng sức mạnh niềm tin tôn giáo. Ánh sáng niềm tin ấy hướng dẫn con người đến yêu thương và phục vụ tha nhân. Khi con người biết sống cho người khác thì con người sẽ tìm thấy chính mình, thấy lý tưởng, thấy ý nghĩa cuộc sống.

Sống cho hạnh phúc của tha nhân, đó là sự thật mà mỗi thần dân sống trong vương quốc Vua Giêsu được mời gọi thể hiện mỗi ngày.

Mừng lễ Chúa Giêsu - Vua Vũ Trụ - Vua Niềm Tin, chúng ta hãy để cho Vua Giêsu chiếm trọn tất cả con người mình, từ tư tưởng lời nói cho đến việc làm. Chúng ta không còn thuộc về thế giới của bóng tối và tội lỗi. Chúng ta thuộc về vương quyền của Vua Giêsu là vương quyền của sự sống và sự thật, vương quyền của niềm tin và ân sủng, vương quyền của sự thánh thiện công lý và tình yêu hoà bình.

 

41. Vua phục vụ

Trên đời này, người ta muốn làm vua, làm lớn, là để lo cho bản thân mình, được vinh thân phì da, để ở trên đầu trên cổ mọi nguời. Nói là phục vụ cho dân, thương dân như con đỏ, tất cả chỉ là những từ hoa mỹ, rổng tuếch, cùng lắm chỉ theo nghĩa tương đối mà thôi… Nhìn các ông vua trong chính quyền VN hôm nay, ta cũng đủ biết, họ chỉ lo cho cái ghế của họ, lo tham nhũng móc ngoặc, để lợi cho mình và gia đình trước đã. Còn dân chúng hả, may nhờ rủi chịu, lỡ nghèo ăn cắp ăn trộm con gà con vịt, phải tù rục xương, ráng chịu lấy!!!

Có một vị Vua kinh thánh nói đến, khác lạ hơn các loại vua nêu trên: Vua hòa bình – vua Tình Thương – Vua công lý – Vua của những người nghèo. Các danh xưng đó không phải chỉ là sáo ngữ, mà là sự thật. Chính vị Vua đó đã nói: “Ta đến là để phục vụ, không phải để được phục vụ, và làm giá cứu chuộc cho nhiều người. - Ai yêu sự thật sẽ đến cùng Ta.” Bao thế kỷ qua, có bao nhiêu người theo chân vị Vua đó... Kính mời anh chị em cùng suy niệm…

a/. Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ; Hội thánh dành để kính Chúa Giêsu là Vua, có ý dâng lên Người tất cả công trình cứu chuộc và tuyên xưng Người là đầu và cũng là cuối cùng của thời gian. Bài Tin mừng hôm nay vừa là một bài miêu tả, vừa nặng phần dụ ngôn, nên không thể nào hiểu được nó chỉ là một bài luân lý suông, mà còn là còn những qui tắc sống con người phải tuân theo để được hạnh phúc…. Đây là khung cảnh ngày cuối cùng của vũ trụ, nơi đây người ta phải tính sổ trước mặt Thiên Chúa mọi việc mình đã làm cho tha nhân, lại được coi là làm cho Thiên Chúa…

Như trên đã nói, bài Tin mừng hôm nay vừa là một bài miêu tả, cảnh ngày phán xét cuối cùng của vũ trụ, vừa là một dụ ngôn. Chúa Giêsu, Vua cao cả ngự trên ngai vinh hiển có các thiên sứ hầu cận, Người tách biệt kẻ lành người dữ, như tách biệt chiên với dê. Lúc đó người chúc phúc cho người lành vì họ đã làm mọi điều tốt lành cho Thiên Chúa. Khi đó, người lành nói: có khi nào con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống.v.v.. Vua Giêsu mới trả lời:Điều gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta, là làm cho chính Ta. Rồi Đức Vua quay sang kẻ dử … cũng nói như thế…

b/. Bài Tin mừng Chúa nhật hôm nay muốn dạy chúng ta điều gì? Chúa nói: “Điều gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta, là làm cho chính Ta.” Vua Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay, đã chúc phúc cho những người lành, và đã mời họ vào Nước Trời, vì khi còn sống, họ quan tâm giúp đỡ kẻ nghèo khó, cơ nhỡ. Hóa ra Chúa quan tâm đến kẻ nghèo, người thấp bé, và Chúa nói: ai giúp đỡ họ, yêu thương họ chính là giúp đỡ, yêu thương chính Chúa.

Xã hội càng văn minh, càng có nhiều người nghèo đói. Chúng ta thử nhìn ngay xã hội VN chúng ta hiện nay. Hàng ngày báo đài ra rả nói, nào đất nước đang phát triển, vùn vụt đi lên, nào hàng năm bước phát triển kinh tế là bao nhiêu phần trăm đó, thu nhập bình quân đầu người là 700 USD = 14.500.000 $VN. Ta thử nhìn coi: VN hiện nay có trên 80 triệu dân; nhưng nông dân đã chiếm ít nữa là 80%. 10% là nông dân giàu, có của ăn của để, còn lại gần 70% nông dân nghèo ở nông thôn, có cơm ăn hàng ngày, dù chưa đói, nhưng… ta có dám nói họ là giàu không? Cần phải xây nhà để ở, hoặc mua chiếc xe Honda để đi, hoặc cưới vợ cho con, đó là cả chuyện nan giải, nhiều lúc phải đi vay nóng vay lạnh…Vậy mà nói dân giàu, đang phát triển? Vậy mà nói vua quan thương con như trứng mỏng…

Chúa Giêsu, Vua của tình thương; Nước của Người là Nước của tình thương, vì thế mọi việc đều xét định dưới ánh sáng của tình thương. Chúa nói: mọi việc bác ái chúng ta làm cho bất cứ ai, cũng là làm cho Chúa. Chỉ có một mình Vua Giêsu mới đồng hóa mình với thần dân Người, chỉ một mình Người mới hết mình lo cho nhân loại, Người sẵn sàng chết cho họ nữa…vì “Điều gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta, là làm cho chính Ta.” Đáng khâm phục thay…Vua Giêsu!!!

Câu chuyện: Đức Cha Gioan Cassaigne, làm TGM Saigòn từ 1940 đến 1955. Khi còn là linh mục, ngài rất quan tâm lo cho anh em Thượng K’Hor bị cùi, tại trại cùi Di Linh nhiều năm. Sau khi làm GM Saigon 15 năm, ngài đã về sống chung cùng anh em cùi Di Linh, và ngài đã ở đó 18 năm. Chính Đức Cha vì yêu thương chăm sóc anh em cùi K’Hor, mà ngài mắc phải bệnh cùi như họ và qua đời. Ngài được chôn cất tại đây giữa những người cùi, mà ngài gọi họ là anh em. Một tấm gương cao cả của lòng yêu thương như Chúa Giêsu nói: Điều gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta, là làm cho chính Ta vậy. Gương của Cha Damien (và nhiều nguời khác), sống giữa những người cùi, rồi cùng chết với họ, đã là những tấm gương sáng ngời sẵn sàng thực hành Lời Chúa nói hôm nay…

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Đón nhận Chúa và phục vụ Chúa không khó, nhưng giúp đở người khác vì danh Chúa, nhất là giúp người mà ta không thích, thật là chuyện vô vàn khó khăn. Bài TM hôm nay Chúa nói:“Điều gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta, là làm cho chính Ta.” Ta có sẵn sàng thực hiện lời Chúa không?

 

42. Lễ Chúa Kitô Vua

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)

Cùng với Giáo Hội Mẹ, hôm nay chúng ta mừng kính trọng thể Lễ Chúa Kitô Vua, tuần cuối của năm Phụng Vụ, với Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới.

Lời Chúa hôm nay muốn nói gì với chúng ta? Bài đọc thứ nhất trích từ sách Ez 34,11-17, trình bày việc Thiên Chúa yêu thương và cứu độ. Khi đến thời đến buổi Người sẽ qui tụ chúng ta lại trong miền đất yêu thương của Người; Người sẽ băng bó và an ủi những thương tật và đau buồn của những ai bị hắt hủi, bị bỏ rơi và bị tổn thương; đồng thời Người cũng loại trừ những lạm dụng luôn quay lưng lại với đồng loại của mình. Người là một vị Thiên Chúa hành xử nhân từ và công chính.

Bài đọc hai trích từ 1Cr 15,20-26.28. Thánh nhân nói với chúng ta về niềm hoan lạc cho những người tin vào tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại, và trong sự chết của Ngài, chúng ta được cứu chuộc; trong sự sống lại của Ngài, chúng ta được sống lại, sống lại trong ngày hôm nay, trong tình nghĩa con cái đối với Thiên Chúa là Cha, và sống lại mai ngày trên quê hương Thiên Quốc khi tất cả được gom lại để qui phục vương quyền của Chúa Giêsu Kitô Vua.

Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh Matthêu tường thuật lại quang cảnh ngày cánh chung, khi Chúa Giêsu tái giáng và Ngài phân xử mọi người tốt hay xấu, lành hay dữ, thiện hảo hay ác độc, đều có mặt và phân xử rõ ràng. Tiêu chuẩn để mà phân tách là tất cả những gì chúng ta thực hiện cho anh em. Chúa Giêsu đồng hóa với tất cả những ai đang sống xung quanh và giữa chúng ta khi chúng ta chia sẻ cơm áo cho người đói khổ trần truồng, khi thăm viếng người bị bệnh nạn hoặc tù đày, tức là chúng ta đến với Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng sinh ra trong hang súc vật, trốn chạy sự tàn ác và tham vọng của con người, bị đeo đuổi chỉ trích, hành hạ và bị treo trên Thập giá. Khi chúng ta từ chối lẫn nhau và quay lưng trước những bất hạnh tinh thần và thể xác của anh em đồng loại thì cũng là lúc chúng ta rời xa Chúa Giêsu, rời xa Thiên Chúa.

Thiên Chúa công bình sẽ dựa vào những hành động và phong cách sống ấy của chúng ta để mà xét xử, vậy chúng ta phải sống Lời Chúa như thế nào trong tuần sống sắp tới đây, tiên vàn chúng ta cảm tạ Thiên Chúa cho một năm Phụng Vụ đã qua, một năm chúng ta nhận lãnh rất nhiều ân sủng của Thiên Chúa qua các Bí Tích, qua các Thánh Lễ mỗi ngày và mỗi tuần, qua các biến cố trong cuộc sống, qua các mối tương quan chúng ta có lẫn nhau. Thứ đến chúng ta xin Thiên Chúa là Cha tha thứ cho chúng ta, vì những vô tâm vô trí và có khi cả những cố ý để mà xúc phạm đến tình yêu của Chúa và những tổn thương gây ra cho anh em mình, nhất là những người ta gặp gỡ mỗi ngày. Sau đó chúng ta có một quyết tâm mới cho những ngày tháng hồng ân của Năm Mới mà chúng ta chuẩn bị đi vào.

Một trong những điều Giáo Hội Mẹ kêu gọi chúng ta sống trong Năm Mới này, đó là biết sám hối những lỗi lầm của chúng ta. Trong sám hối chúng ta vừa nhận ra mình có tội với Chúa, với anh chị em xung quanh, đồng thời cũng bị thúc bách phải thay đổi thái độ và phong cách sống cho phù hợp với Tin Mừng của Chúa.

Chúng ta dựa vào đâu để biết, để thay đổi? Lời Chúa trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe đã đưa ra những tiêu chuẩn, là Chúa Giêsu có mặt ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi con người mà chúng ta gặp mỗi ngày, chúng ta hãy đến với Ngài qua những con người đó, những con người thân thương và cả những con người thật khó mà có cảm tình, những con người mà chúng ta chung chia đức tin và cả những con người chưa hề có ý niệm gì về Thiên Chúa, nhất là những con người không muốn nhận Thiên Chúa là Cha của mình. Chúng ta đến và yêu thương họ, vì họ cũng được Thiên Chúa yêu thương và muốn dắt về để chung hưởng hạnh phúc trong quê hương Thiên Quốc.

Rồi những ngày này, biết bao người anh chị em của chúng ta đang phải vật lộn với đói khổ vì thiên tai, vì bệnh tật, vì bị bỏ rơi v.v..., chúng ta nghe lời các chủ chăn trong giáo phận và giáo xứ, chúng ta cố gắng đóng góp để giúp đỡ họ. Dĩ nhiên, nhiều người trong chúng ta không khá giả gì, và cuộc sống mỗi ngày cũng phải chắt chiu từng đồng để kiếm sống. Vả lại, đất nước (Việt Nam) của chúng ta là một trong ba nước có tệ nạn tham nhũng nhất thế giới (so với Pakistan và Indonesia). Nhưng với những con người mang tâm trạng yêu thương anh chị em mình đang đau khổ, chúng ta nên bớt chút những đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình để chia sẻ, mặc dù không biết có đến tay người nhận hay không? Nhưng Chúa biết tấm lòng của chúng ta dành cho nhau, nếu cứ ngại ngùng và suy nghĩ mãi thì không biết đến bao giờ những người anh chị em mới có được chén cơm manh áo.

Với tất cả những suy nghĩ dựa trên Kinh Thánh hôm nay, chúng ta sốt sắng dâng lên Thiên Chúa Cha trước bàn thờ của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta và nài xin ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, để chúng ta có một tuần sống xứng đáng là con Thiên Chúa, là dấu chứng tình yêu Chúa giữa anh chị em.

Có thể nói rằng, với hành vi dâng hiến quảng đại cho ý muốn của Chúa Cha, Đức Mẹ đã mang Đức Giêsu Kitô đến cho chúng ta. Noi gương Mẹ, chúng ta bước vào Mùa Vọng mới với tâm tình dâng hiến và đón nhận thánh ý Chúa Cha, thể hiện qua những gì chúng ta sống hôm nay như Mẹ Maria ngày xưa. Amen.

 

43. Thần dân trung tín của Vua Tình Yêu

(Suy niệm của AM Trần Bình An)

Thường thì phạm nhân không được phép treo ảnh, nhưng Hiroshi Igarashi nài xin ban quản giáo và cuối cùng được phép treo ảnh Mẹ Têrêsa thành Calcutta. Một đêm nọ, một quản giáo đi tuần khu nhà tù anh ở đã yêu cầu anh: “Này, anh làm ơn lấy bức ảnh đó xuống dùm tôi. Mắt bà ấy nhìn sợ quá.” Igarashi đáp: “Anh thấy rùng rợn vì anh là người tội lỗi.”

Giờ đây Igarashi đã được tự do, anh tổ chức một nhóm ở Tokyo gọi là “Nhà Mẹ”. Nhóm tận tâm giúp những người ở tù làm lại cuộc đời và tái nhập xã hội sau khi mãn hạn tù. Nhóm lấy tên Mẹ Têrêsa và còn lấy tinh thần của thánh nhân và Kinh Thánh làm nền tảng cho các hoạt động của nhóm. Có tiền án hình sự 3 lần và gần 20 năm ngồi tù, Igarashi biết rõ thực trạng và tất cả các vấn đề trong tù. Nhiều tù nhân bị cô lập và thiếu thốn tình thương. Điều mà những người này cần là có người hỗ trợ họ về mặt tình cảm, nhưng không có ai làm điều đó cả.

Khi anh bị bắt giam lần thứ ba, gia đình anh cắt đứt mọi liên hệ với anh. Anh đã nghĩ đến chuyện tự vẫn, nhưng ngay lúc đó có một người Brazil gốc Nhật vui tính bị cảnh sát bắt giam. Người này thường xuyên cầu nguyện và nói về Kinh Thánh cho Igarashi nghe. Đó là lần đầu tiên Igarashi bắt đầu đọc Kinh Thánh. Anh ấn tượng nhất là câu: “Saolô, Saolô sao ngươi lại bắt bớ ta?” (Cv 9, 4) Đối với Igarashi, câu này nghe như thể Đức Kitô đang hỏi chính anh: “Sao con phạm tội chống Ta?”Đó là lúc anh trở lại đạo. Anh cầu nguyện hết lòng, lớn tiếng nói: “Con xin lỗi Chúa!”

Anh nhận ra khi Chúa Giêsu chết trên thập giá, Ngài chết thay cho anh trên đó và anh khóc nức nở. Igarashi biết Mẹ Têrêsa cũng ở trong nhà tù, qua một quyển sách anh tình cờ đọc được. Anh lập tức tin rằng “con người này có thật” và muốn học hỏi nơi thánh nhân, mãi sau này anh mới biết ngài đã qua đời. May mắn thay, anh có cơ hội gặp được một số tu sĩ dòng Thừa sai Bác ái do ngài sáng lập.

Đức cố Hồng y Seiichi S. Hirayanagi mở khoá học giáo lý tân tòng giới thiệu đức tin Công giáo cho anh. Một luật sư Tin lành đã đứng ra bảo lãnh anh. Khi ra tù, Igarashi bắt đầu biến đức tin thành hành động thực tế bằng cách thành lập Nhà Mẹ. Đức Tổng Giám mục Takeo Okada đích thân gửi thư chúc mừng. Anh làm việc hết mình, phấn đấu noi theo con đường tình yêu của Mẹ Têrêsa. (Theo UCA News)

Đức Kitô, Vua Tình Yêu đã cảm hóa tù nhân Hiroshi Igarashi. Nhờ vậy, Mẹ Têrêsa Calcutta mới dẫn dắt anh bước theo Ơn Gọi. Tin Mừng hôm nay công bố điều kiện để được Thiên Chúa chúc phúc và được ban thưởng Nước Trời.

Xả kỷ

Tiên quyết theo lời mời gọi Tình Yêu Thiên Chúa, người Kitô hữu phải bỏ mình, thoát khỏi những ràng buộc xác thịt, đam mê, ham muốn, nếu quyết dấn thân theo Chúa, với trọn tâm tình tin, cậy, mến.”Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.” (Lc 9, 23)

Không nuông chiều bản thân, không màng danh lợi phù vân, mà cần làm trọn bổn phận, trách nhiệm được Chúa trao phó. Chu toàn mọi nhiệm vụ, hay Ơn Gọi, dù chịu khó khăn, thách đố, dù bị đối xử phân biệt, bị vu oan cáo vạ, tra tấn, tù đầy, ám hại, vẫn phó thác, vững tin vào Chúa Quan Phòng.

Một khi xả kỷ, bỏ đi bản thân, thì mới có thể tha thiết gần gũi với tha nhân, để cảm thông, chia sẻ và giúp đỡ. Nếu còn lấn cấn ngã chấp, cao ngạo, lục dục, tham sân si, thiếu khiêm hạ, vì còn dai dẳng vị kỷ, kiêu căng, coi thường, đố kỵ, khinh khi, ganh ghét người khác, thì làm sao có thể chân thành đến với người khốn cùng. Nếu có, chỉ là đóng kịch, giả hình, che mắt thiên hạ, hòng kiếm chút hư danh phù du.

Bác ái

Cảm nghiệm Tình Yêu vô biên, Mẹ Têrêsa Calcutta mới hiểu thấu vì sao Đức Giêsu hiện thân trong người nghèo khổ, hèn mọn:“Chúng ta phải ngạc nhiên thấy Chúa đói khát chúng ta như thế nào. Người đã hóa nên kẻ đói khổ, kẻ thiếu áo mặc, người hấp hối, để chúng ta có cơ hội cho Người ăn, cho Người mặc, phục vụ Người qua công việc chúng ta giúp đỡ người nghèo khó.”

Bác ái còn là dấu chỉ Tình Yêu, vì thế: “Đâu có tình yêu thương, ở đó có Thiên Chúa; đâu có thù ghét, ở đó có hỏa ngục.” (Đường Hy Vọng, số 749)

Buồn lắm thay, cũng phát sinh những kiểu bác ái biến thể, dị dạng, què quặt, lạm dụng, phi Kitô giáo, thậm chí phản Kitô:

Có loại bác ái ồn ào: Bác ái phóng thanh.

Có loại bác ái kể công: Bác ái ngân hàng.

Có loại bác ái nuôi người: Bác ái sở thú.

Có loại bác ái khinh người: Bác ái chủ nhân.

Có loại bác ái theo ý: Bác ái độc tài.

Có loại bác ái nhãn hiệu: Bác ái giả hiệu.

(Đường Hy Vọng, số 756)

Phục vụ

Sau khi rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu phán dạy: “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Ga 13, 14-15) Không chỉ phục vụ lẫn nhau, thân bằng quyến thuộc, Đức Giêsu còn đòi hỏi phải phục vụ những người hèn mọn, bé nhỏ, khốn cùng, khách lạ, người đau yếu, kẻ tù tội. Bởi vì những người khốn khổ đó chính là hiện thân Chúa Giêsu.

Thánh Phaolô khẩn khoản Kitô hữu hãy quên mình phục vụ tha nhân. “Đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau.” (Gl 5, 13)

Phục vụ tha nhân đâu chỉ bằng vật chất, của cải, mà còn bằng tinh thần, thân thiện, sự chia sẻ, sự quan tâm, đồng cảm, đồng hành, hiệp thông cầu nguyện: “Tôi không làm việc bác ái được, vì tôi không có tiền! Chỉ có tiền mới bác ái sao? Bác ái của nụ cười, bác ái của bắt tay, bác ái của thông cảm, bác ái của thăm viếng, bác ái của cầu nguyện.” (Đường Hy Vọng, số 741).

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết yêu như các Thánh yêu người, biết nhận ra Chúa trong mọi người, nhất là những kẻ hèn kém, khốn cùng, để chúng con có thể xả thân phục vụ Chúa mọi nơi, mọi lúc.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ là mẫu gương mẫu bác ái, phục vụ, xin giúp chúng con biết noi theo Mẹ thực hành Lời Chúa dạy mến Chúa yêu người, để chúng con xứng đáng được nhập vào đoàn chiên bên hữu Chúa Giêsu Kitô. Amen.

 

44. Cha Ta chúc phúc – Lm. Vũ Đình Tường

Ngày nay nói đến vua chúa ai cũng cho là chuyện của thời đã qua. Xưa kia hình ảnh vua chúa, quan quyền cao trọng bao nhiêu ngày nay bị lơ là bấy nhiêu. Quốc gia nào còn giữ được truyền thống hình ảnh hoàng gia sống động cũng chỉ là giữ hình thức truyền thống xưa. Gọi là hình thức vì người trong hoàng tộc không hưởng đặc ân như xưa. Nếu thực tài họ cũng làm việc như những công dân khác và cùng trách nhiệm pháp lí như mọi người. Thiếu tài không thực sự lãnh đạo, cũng chẳng quyền thế. Đại đa số hình ảnh vàng son thời vua chúa ngày nay đóng khung, lộng kiến trong lâu đài bảo tàng viện.

Câu hỏi đặt ra cho các Kitô hữu ngày lễ kính Chúa Kitô vua vì thế có lỗi thời chăng? Với Kitô hữu có danh, không thực hành đời sống đạo thì đại lễ, lễ kính, lễ nhớ. Tất cả đều lỗi thời vì đối với họ tôn giáo là lỗi thời. Với Kitô hữu chân chính, sống thực hành niềm tin thì ngày lễ kính Chúa Kitô vua là một ngày hết sức đặc biệt. Đặc biệt vì nhiều lý do. Lý do quan trọng hơn cả vì Ngài là vua tình yêu. Tình yêu ban sự sống. Sự sống vĩnh cửu. Chỉ có Đấng chiến thắng sự chết mới ban sự sống vĩnh cửu. Mừng lễ Chúa Kitô vua chính là mừng lễ Ngài chiến thắng tử thần. Chiến thắng này không phải riêng cho Ngài mà cho chính chúng ta. Mừng vua chúng ta chiến thắng khải hoàn. Người hưởng thành quả của chiến thắng là chính chúng ta. Lễ mừng kính Ngài là lễ tạ ơn Ngài thắng trận thay cho chúng ta.

Lý do thứ hai để mừng kính do tiên tri Êdekia đưa ra. Đó là tạ ơn một chủ chiên hiền từ, nhân lành, đầy lòng xót thương. Lòng nhân từ của chủ chiên tỏa lan đến toàn đàn chiên, bao gồm cả chiên mạnh khoẻ đến chiên đau bệnh, chiên trong ràn và chiên ngoài ràn.

Chính Ta sẽ chăn dắt các chiên Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ, Chúa là Thiên Chúa phán như thế. Ta sẽ tìm con chiên đã mất, sẽ đem con chiên lạc về, sẽ băng bó con chiên bị thương tích, sẽ lo chữa con chiên bị ốm đau, con nào mập béo, Ta sẽ chăm sóc, và sẽ chăn dắt nó trong sự công chính (Ed 34,15)

Lý do thứ ba để mừng vì hãnh diện, Đức Kitô chiến thắng điều mà toàn thể nhân loại thua, sợ, cố tránh nhưng không tránh được. Điều nhân loại mong tránh thì Thiên Chúa của sự sống đè bẹp dưới chân. Hình ảnh này rất gần với hình ảnh xưa kia Đức Trinh Nữ đạp đầu kẻ thù của nhân loại là con rắn, hình ảnh của satan. Người Con duy nhất của Mẹ là Đức Kitô đặt kẻ thù dưới chân. Kẻ thù đây là tử thần. Chính Ngài đã chiến thắng sự chết. Sự chết không còn làm chủ nữa, chúng không còn tác oai, tác quái nhưng đã bị đặt vào đúng vị trí, đúng chỗ của nó.

Lý do thứ tư mừng phần thưởng tương lai của mỗi chúng ta. Phúc âm đưa ra hình thời sinh tiền sống bác ái, yêu thương; khi chết cũng sẽ được yêu thương bồi đắp. Bác ái, yêu thương diễn tả qua hành động cụ thể trong cuộc sống và được chính Chúa Cha chúc phúc.

Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta.

Hình ảnh của những con chiên đau khổ, thương tật trong sách tiên tri Êdekia giờ trở thành hình ảnh của những con người bất hạnh vì ốm đau, bệnh tật, gây nên bởi cô đơn, buồn thảm. Hình ảnh con người ốm o, gầy còm, ho sặc sụa, khát khô họng được nhắc đến như hình ảnh chiên lạc. Bàn tay nâng đỡ vỗ về của chủ chiên được trao sang bàn tay của mọi người. Những bàn tay làm công việc của bàn tay chủ chiên. Chính vì làm công việc của chủ chiên mà chủ chiên chúc phúc, đón nhận và ban thưởng. Chủ chiên chia phần gia nghiệp nước trời của mình cho những ai cùng cộng tác, lao tác, chia sẻ công việc của chủ chiên vì thợ thì đáng hưởng công. Phần thưởng thứ hai dành cho những bàn tay nâng đỡ, vỗ về chiên đau bệnh, chiên lạc đến từ Thiên Chúa Cha. Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc đến lãnh thưởng. Ân phúc Thiên Chúa ban thưởng đến từ Thiên Chúa Cha. Đây là nguyên nhân nữa để mừng kính ngày lễ Đức Kitô vua.

 

45. Yêu mến và phụng sự Chúa nơi tha nhân

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Hôm nọ, có người đàn ông đem đến cho tôi một tượng chuộc tội khá lớn. Bàn tay Chúa Giêsu chịu đóng đinh bị sút ra khỏi thanh ngang của cây thánh giá. Ông ta nhờ tôi đóng lại cây đinh bị sút để tượng Chúa Giêsu chịu nạn được gắn chặt vào thập giá như trước.

Tôi hỏi ông: “Một việc đơn giản như thế, sao ông không tự làm lấy, đem đến nhờ tôi làm gì mất công.” Ông trả lời: “Tôi không dám đóng đinh Chúa, sợ xúc phạm đến Ngài.”

Vậy mà mấy tuần sau, ông nầy lại vác rựa chém người hàng xóm, may có người can ngăn kịp thời, nếu không thì ông ta đã chém chết một hiện thân sống động của Thiên Chúa.

Nhiều người cung kính cúi đầu trước tượng ảnh thánh và không bao giờ dám xúc phạm đến ảnh tượng thánh do tay người phàm làm ra, nhưng lại ngang nhiên xỉ vả, mắng chửi, đánh đập những người chung quanh là hình tượng sống động của Thiên Chúa do chính Ba Ngôi Thiên Chúa dựng nên mà không áy náy lương tâm.

Sở dĩ như thế cũng chỉ vì người ta không nhận ra những người đang sống chung quanh mình là hiện thân của Chúa Giêsu. Mà hiện thân của Chúa Giêsu thì đáng trọng hơn những bức tượng thánh bằng thạch cao, bằng gỗ đá… là biểu tượng của các thánh, do con người tạo nên.

Nói như thế không phải là xem thường ảnh tượng thánh nhưng để nhấn mạnh rằng nếu chúng ta dành cho các tượng ảnh thánh trên bàn thờ một tâm tình tôn kính đặc biệt và không bao giờ dám xúc phạm ảnh đến ảnh tượng thánh, thì chúng ta cũng phải đối xử y như thế đối với anh chị em chung quanh.

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta rằng mọi người chung quanh chúng ta, dù bần cùng cơ cực, dù đau yếu bệnh tật, dù bị tù đày hay bị ruồng bỏ… cũng đều đáng được tôn trọng, đáng được yêu thương và phục vụ vì họ là hiện thân của Chúa Cứu Thế, là chi thể của Chúa Giêsu.

Những ai cho người đói khát một bát cơm thì Chúa Giêsu nói là họ đã cho Ngài ăn, vì người đói khát đó cũng chính là Chúa; những ai cho người rách rưới một tấm áo thì Chúa Giêsu nói là họ đã cho Ngài mặc, vì người rách rưới đó cũng chính là Chúa… Như thế, Ngài dạy rằng mọi người chung quanh chúng ta là hiện thân của Ngài, làm gì cho họ là làm cho chính Chúa.

Nếu hôm nay chúng ta chửi mắng, chà đạp, gây buồn phiền đau khổ cho những người chung quanh thì đến ngày ra trước toà phán xét, Chúa Giêsu sẽ phán với chúng ta rằng: "Hỡi quân bị nguyền rủa kia, hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào chốn cực hình dành sẵn cho ma quỷ và các thần ác, vì xưa kia ngươi đã đánh đập, chửi mắng, xỉ nhục Ta…”

Hôm xưa, đang khi ông Sao-lê (tức là thánh Phao-lô khi chưa trở thành tông đồ của Chúa) hăm hở tìm bắt những người tin theo Chúa Giêsu tại thành Đa-mát, bỗng nhiên ông bị ngã xuống và có tiếng Chúa Giêsu (đã phục sinh) vang lên giữa thinh không: "Sao-lê, tại sao ngươi bắt bớ Ta?" Phao-lô hết sức kinh hoàng, đáp lại: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Có tiếng từ trời đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ" (Cv 22, 6-9).

Sự kiện nầy chứng tỏ bắt bớ các ki-tô hữu là bắt bớ Chúa Giêsu vì họ là hiện thân của Chúa Giêsu.

Thánh Ca-mi-lô Len-li là đấng sáng lập “Hội Dòng Tôi Tớ các bệnh nhân”. Ngài luôn nhìn thấy Chúa Giêsu nơi các bệnh nhân, đến nỗi nhiều lần mang thức ăn cho họ, ngài nghĩ họ là Đức Ki-tô nên nài xin họ ban ơn và tha thứ tội lỗi cho mình. Ngài đứng trước mặt họ với với thái độ cung kính như thể đang ở trước nhan Chúa vậy.

Qua trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta bí quyết để được hạnh phúc đời đời, đó là biết nhận ra Chúa nơi mỗi anh chị em đang sống chung quanh và hết lòng yêu thương phục vụ Chúa nơi những người đó.

Bài học nầy là cốt tuỷ của giáo lý công giáo, là kim chỉ nam cho đời sống đạo, là chìa khoá mở cho ta vào cửa thiên đàng.

Lạy Chúa Giêsu,

Nhờ Lời Chúa soi sáng, chúng con biết rằng yêu thương phục vụ tha nhân là con đường đưa tới hạnh phúc thiên đàng và vô cảm thờ ơ trước những đau thương của tha nhân là đường dẫn xuống hoả ngục.

Xin giúp chúng con dứt khoát từ bỏ lối sống ích kỷ và sẵn sàng yêu thương phục vụ mọi người, nhờ đó, mai đây chúng con được Chúa đón vào quê trời muôn đời vinh hiển. Amen.

 

46. Tha nhân là thân thể Chúa Giêsu – Lm. Trần Ngà.

(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)

Một linh mục nọ ngỏ lời với cộng đoàn phụng vụ rằng: "Khi trao Mình Thánh Chúa cho anh chị em, tôi nâng Mình Thánh Chúa lên và nói: Mình Thánh Chúa Kitô! Tất cả anh chị em đều tin thật đó là Mình Thánh Chúa và từng người đáp lại: Amen, nghĩa là mỗi người tuyên xưng đó chính là Mình Thánh Chúa thật sự và cung kính rước Người vào lòng. Thế nhưng, nếu tôi chỉ vào từng người ngồi quanh đây và nói: Đây là thân thể Chúa Giêsu thì có lẽ anh chị em không tin người đó là thân thể Chúa, không tỏ lòng tôn kính và không muốn đón rước người đó vào nhà mình, nếu không ưa thích người đó.

Ngay lúc đó, dưới hàng ghế giáo dân có tiếng xì xào. Hình như nhiều người không đồng quan điểm với Cha sở về nội dung nầy.

Sau thánh lễ hôm ấy, một thanh niên đến gặp cha sở và thưa:

- Thưa cha, trong bài giảng hôm nay, chúng con giật mình khi nghe Cha nói từng người chung quanh chúng ta đây, kể cả những người tàn tật, bần cùng, tội lỗi... đều là thân thể Chúa Giêsu.

- Thế anh không tin mọi người là thân thể Chúa Giêsu sao?

- Con tin tấm bánh thánh mà linh mục đã truyền phép và trao cho giáo dân rước lễ thật sự là Thân Thể Chúa; còn người cha, người mẹ, người anh chị em, người láng giềng... không thể là thân thể Chúa được. Cha có bằng chứng gì chứng tỏ tha nhân là thân thể Chúa Giêsu không?

- Nói có sách, mách có chứng. Bằng chứng đây (giơ cuốn Tân Ước ra), anh hãy đọc Thánh Phaolô, trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Cô-rin-tô: "Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?" (I Cr 6, 15).

- Thật thế ư? Thế thì Cha có biết vì sao thánh Phaolô nói bạo như thế không?

- Thánh Phaolô dạy điều nầy căn cứ vào kinh nghiệm bản thân. Hồi ấy, Phaolô chưa tin vào Chúa Giêsu, ông nhiệt thành với lề luật và hăm hở tìm bắt những người theo Chúa Giêsu. Nên nhớ là vào thời điểm đó Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời rồi.

Trên đường Damas, Phaolô bị quật ngã và có tiếng Chúa Giêsu vang lên giữa thinh không: "Sao-lô, tại sao ngươi bắt bớ Ta?" Phaolô hết sức kinh hoàng: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Có tiếng từ trời đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ". (Cv 22, 6-9)

Thế là từ hôm ấy, Phaolô không dám bắt bớ các tín hữu nữa, vì ông biết rằng: họ là những Giêsu khác, bắt bớ họ là bắt bớ Chúa Giêsu.

Người thanh niên vẫn còn hoài nghi, anh hỏi tiếp:

- Vậy thưa cha, đó là giáo lý của thánh Phaolô. Còn về phần Chúa Giêsu, có bao giờ Người dạy như thế không?

- Có chứ! Nào, mời anh lật qua Tin Mừng Matthêu, chương 25, trong dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng. Đó là bài chúng ta vừa nghe đọc hôm nay đây.

Qua dụ ngôn nầy, Chúa Giêsu tỏ cho thấy những ai cho những người đói khát đầu đường xó chợ một bát cơm thì Chúa nói là họ cho Chúa ăn. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một manh áo, thì Chúa nói là họ đã cho Người mặc. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ một thời gian thì Chúa nói là họ đã cho Chúa trọ nhà... Nói như thế, Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với mọi người chung quanh. Nói khác đi, bất cứ ai cũng được Chúa Giêsu nhìn nhận là chính Người.

- Thật thế ư? Vậy mà lâu nay con không ý thức điều đó. Và thưa cha, sách giáo lý công giáo có chỗ nào nói như thế không cha?

- Đây, giáo lý công giáo đây, anh mở ra xem, bài nói về Bí tích thánh tẩy, số 1267: "Bí tích thánh tẩy làm cho chúng ta thành chi thể trong Thân Thể Chúa Kitô".

- Thế các Đức Giáo Hoàng có dạy như thế không?

- Đây nữa (chìa sách ra), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong tâm thư gửi các gia đình có viết, anh đọc thử xem: "Thiên Chúa đã đồng hoá với người cha, người mẹ, người con trong gia đình. Những gì mỗi thành viên trong gia đình làm cho nhau là làm cho chính Chúa".

- Thưa Cha, khi mới bước vào gặp cha, con không tin tha nhân là thân thể Chúa Giêsu, nhưng bây giờ thì con đã tin. Nhưng xin hỏi cha, vậy con có buộc phải tôn kính tha nhân như tôn kính Chúa trong nhà thờ không?

- Trước hết, anh hãy nghe lời dạy của Mẹ Têrêxa Calcutta. Hôm ấy, có một thiếu nữ Ấn-độ đến gặp Mẹ Têrêxa Calcutta để tìm hiểu Hội Dòng của Mẹ. Trước hết, Mẹ nói với người thiếu nữ ấy: "Con hãy qua nhà hấp hối. Ở đó, con sẽ gặp nhiều người bất hạnh nghèo khổ, bệnh tật đang nằm chờ chết. Con hãy săn sóc an ủi họ".

Thiếu nữ vừa quay lưng đi thì Mẹ Têrêxa gọi giật lại: "Nầy con, khi dâng thánh lễ, con thấy linh mục trân trọng mình thánh Chúa Giêsu sau khi truyền phép thế nào, thì con cũng hãy trân trọng những con người bất hạnh ấy như thế".

Nói như thế, Mẹ Têrêxa Calcutta muốn dạy rằng: mỗi một con người dù bần cùng khốn khổ đến đâu cũng phải được tôn trọng như Mình Thánh Chúa.

- Ngoài Mẹ Têrêxa Calcutta, có vị thánh nào khác tôn trọng con người như chính thân thể Chúa Giêsu nữa không?

- Có nhiều: thánh Gioan Kim Khẩu, thánh Elisabet Hung-ga-ri, thánh Phanxicô Atxidi, vv... Có lần Phanxicô gặp một người phong hủi rất ghê tởm. Ban đầu Anh định xa lánh, nhưng sau đó, Phanxicô cảm nhận ra người phong hủi đó là một phần thân thể bị thương tích, bị lở loét của Chúa Giêsu, nên Anh đã đến chào hỏi và ôm hôn người phong hủi đó.

- Thưa cha, con thấy nhiều tín hữu rất mực tôn kính Chúa Giêsu trên bàn thờ, còn những chi thể sống động của Chúa Giêsu trong đời thường thì hình như không được ai tôn kính.

- Đúng thế! Vì vậy, thánh Gioan kim khẩu dạy chúng ta đừng phân biệt đối xử giữa Chúa Giêsu trong nhà thờ và Chúa Giêsu ngoài nhà thờ. Chúa Giêsu trong nhà thờ và Chúa Giêsu ngoài nhà thờ, tức là những anh chị em khác, phải được tôn trọng như nhau. Để tôi đọc cho anh nghe lời dạy của người:

"Bạn muốn tôn kính thân thể Đức Kitô ư? Chớ khinh chê thân thể ấy khi thân thể ấy trần trụi. Đừng có thái độ nầy là trong nhà thờ thì tôn kính, cho thân thể Người mang những y phục lụa là gấm vóc, nhưng ở ngoài lại coi thường, để cho thân thể ấy phải giá lạnh và trần trụi. Thân thể Chúa ở đây (trong nhà thờ) không cần y phục, nhưng cần tâm hồn trong trắng; còn thân thể Chúa ngoài kia (tức là tha nhân) thì cần được chăm lo tận tình."

- Thưa cha, dường như đối với nhiều người, việc khinh dể, nhạo báng, xúc phạm đến anh chị em chung quanh là chuyện nhỏ, chẳng có gì đáng quan tâm.

- Đó là một sai lầm tai hại vì đến ngày phán xét, Chúa Giêsu sẽ nói với những kẻ ấy rằng: "Quân bị nguyền rủa kia! Hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào chốn cực hình đời đời dành cho ma quỷ và các thần dữ, vì xưa kia, ngươi đã khinh dể, nhạo báng, xúc phạm đến ta!..."

* * *

Nội dung trên đây là giáo lý cốt tuỷ của đạo thánh Chúa. Nếu chúng ta tuân giữ được giáo huấn cốt tuỷ nầy thì đã nắm chắc được chiếc vé vào cửa thiên đàng trong tay, vì thánh Phaolô trong thư Rôma khẳng định rằng: "Ai yêu thương người là đã chu toàn lề luật" (Rm 13, 10).

Nguyện xin Chúa giúp chúng ta giữ trọn giáo huấn nầy để làm cho thế giới nầy ấm lên bằng tình yêu thương nhân ái, đồng thời nhờ đó, tất cả chúng ta mai đây sẽ được Vua Giêsu mời đón vào hưởng hạnh phúc đời đời với Người trên thiên quốc.

 

47. Chúa Kitô, Vua tình yêu - Lm. Minh Vận, CRM

Ngày 12.10.1931 kỷ niệm tìm thấy Tân Thế Giới, tại kinh thành Rio nước Brazil, người ta tổ chức một buổi lễ thật vĩ đại và long trọng khánh thành pho tượng Chúa Kitô Vua khổng lồ: Tượng cao 30 mét, đầu dài 3 mét 75, hai tay giang ra từ phải qua trái 30 mét, dựng trên một trái núi cao 700 mét. Buổi lễ diễn ra rất tưng bừng náo nhiệt. Pho tượng sừng sững, oai nghiêm và nhân từ, tỏa ra muôn ánh hòa quang sáng ngời bởi muôn ngàn ánh điện lung linh diệu huyền, khiến du khách thập phương ngưỡng mộ, ca ngợi và lòng tràn đầy hoan hỉ tôn phụng Vương Quyền Chúa Kitô, Vua vũ trụ, Vua trên muôn Vua, Vua mọi tâm hồn.

I. NHỮNG HÌNH THỨC TÔN NHẬN CHÚA LÀ VUA

Khi thiết lập Lễ Chúa Kitô Vua, Giáo Hội có mục đích nói lên cho nhân loại biết Vương Quyền cao cả của Chúa Kitô; mọi loài trên trời dưới đất và trong hỏa ngục đều phải hết lòng tôn thờ, sùng mộ, phụng sự và mến yêu Chúa. Không những phải tôn nhận Chúa là Chủ Tể vạn vật, là Chúa muôn loài, là Vua vũ trụ mà còn phải tôn nhận Chúa là Vua các dân tộc, các quốc gia, mọi gia đình và mọi tâm hồn... Cũng cùng quan niệm đó, các giáo phái ngoài Công Giáo cũng đều chân nhận và suy tôn Chúa Kitô là Vua. Các dân tộc dù không tôn thờ Thiên Chúa cũng phải tôn nhận Ngài là Chủ Tể dưới hình thức này hay hình thức khác. Chúng ta thấy những hình thức tôn nhận Chúa Kitô là Vua vũ trụ, diễn ra khắp thế giới, nơi mọi quốc gia, mọi dân tộc, nhất là xã hội nơi chúng ta đang sống.

 

Những hình thức đó được kể tới như niên lịch Công Giáo năm 2000, đánh dấu biến cố lịch sử vô cùng quan trọng, Chúa Kitô Ngôi Lời Thiên Chúa đã giáng sinh làm người để cứu chuộc nhân loại. Rồi, toàn bộ Thánh Kinh từ Cựu Ước tới Tân Ước đã chứng minh về Ngài. Ngày nay, dù muốn hay không tất cả mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi ngôn ngữ đều phải công nhận. Khắp đó đây trên thế giới, các Thánh Đường mọc lên như nấm, rải rác khắp hang cùng ngõ hẽm, đâu đâu người ta cũng thấy Thánh Đường, nhất là nơi xứ sở chúng ta đang sống, chỗ nào cũng Church, Church, cỡ to cỡ nhỏ, ngay một ngã tư, cũng có thể thấy 3 hoặc 4 Thánh Đường. Có những Thánh Đường được kiến trúc thật nguy nga đồ sộ, tân kỳ, lộng lẫy, tốn phí những ngân khoản khổng lồ. Ngoài ra, còn có những trung tâm hành hương, tổ chức những buổi lễ thật long trọng hấp dẫn, những cuộc cung nghinh biểu dương Đức Tin thật trọng thể, những giờ đền tạ tôn thờ Thánh Thể, sùng kính Thánh Tâm Chúa thật sốt sắng tha thiết. Chưa hết, ngoài ra, còn có các buổi hội thảo thuyết trình; những trường dạy Thánh Kinh, giáo lý; các cuộc giảng thuyết trình diễn trên télévision; sách Thánh Kinh được xuất bản cỡ lớn cỡ nhỏ với đủ mọi thứ ngôn ngữ, có cả loại hình ảnh lộng lẫy màu sắc tuyệt đẹp, với số lượng vô kể, không có một thứ sách nào trên thế giới sánh kịp.

Pho tượng khổng lồ Chúa Kitô Vua với cuộc lễ linh đình trên kia; biết bao hình thức chúng ta vừa đề cập tới, phải chăng đủ chứng minh lòng tôn sùng, kính mến loài người dâng lên, để tôn nhận Vương Quyền của Chúa Kitô, suy phục quyền bính của Ngài cách xứng đáng? Nếu chỉ căn cứ ở những dấu hiệu bề ngoài đó, hoặc nếu chúng ta là những du khách từ khắp nơi tới du lịch tại Hiệp Chủng Quốc này, hẳn chúng ta tất cả đều phải tấm tắc ca ngợi dân tộc Hoa Kỳ là một dân tộc rất sùng đạo, có thể nói vượt xa hơn mọi dân tộc khác.

II. NHỮNG ĐIỀU PHẢN NGHỊCH ĐÁNG SỢ

Chính Chúa Kitô đã phải than phiền: "Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng xa cách Ta!" Chỗ khác, Chúa phán với những người Pharisiêu: "Không phải kẻ nói: Lạy Chúa! Lạy Chúa, mà được vào Nước Trời; trái lại, chỉ có kẻ tuân giữ lời Ta truyền dạy mới được vào Nước Trời!" Rồi với thiếu phụ Samaria Chúa phán: "Đã đến lúc, người ta phải thờ phượng Thiên Chúa trong chân lý, công bình và bác ái". Chúa còn xác quyết: "Kẻ yêu kính Ta hãy giữ giới luật Ta truyền dạy".

Qua các lời Chúa phán trên đây, chúng ta hãy để cho lòng lắng dịu xuống, suy tư hồi tưởng; rồi tự thâm tâm chúng ta tự trả lời câu hỏi: "Loài người nói chung và riêng bản thân chúng ta là con cái Chúa, chúng ta đã thực sự tôn nhận, suy phục và sống xứng đáng với lòng tôn sùng Chúa Kitô là Vua chúng ta chưa? Nhân loại đã sẵn sàng đón nhận và thực thi giáo huấn của Chúa chưa? Giáo huấn của Chúa đã thực sự thấm nhập vào luật lệ các quốc gia, điều khiển nền luân lý các dân tộc, chi phối các sinh hoạt xã hội, chính trị, tôn giáo của loài người chưa? Hay chỉ có những hình thức sùng đạo, mang một nhãn hiệu phô trương thương mại và kiêu căng? Nếu quả thực, không đến nỗi đáng trách, thì hỏi Chúa Kitô đã một phần nào được hài lòng với chúng ta là con cái Chúa chưa?"

Chúa Phán: "Yêu Ta hãy giữ giới luật Ta truyền dạy". Giới luật Chúa truyền dạy loài người phải tuân giữ đã được ghi trong kho tàng Thánh Kinh, qua quyền giáo huấn của Giáo Hội, hoặc âm thầm nhắn nhủ trong lương tâm chân chính của mỗi người. Chúng ta đã sẵn sàng đón nhận và ngoan ngoãn sống theo những lời Chúa giáo huấn được bày tỏ trong các nguồn mạch đó chưa?

Đây là kết quả do một cuộc phỏng vấn sau dịp Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II thăm viếng Hoa Kỳ vừa qua, sẽ cho chúng ta thấy cái nhìn trung thực về lòng sùng mộ Vương Quyền Chúa Kitô và tuân giữ giáo huấn của Ngài thế nào?

Có thể nói hết mọi người, không riêng gì người Công Giáo mà hầu hết anh em trong các giáo phái và các tôn giáo ngoài Kitô Giáo, ai ai cũng đều nhiệt tâm đón tiếp Đức Thánh Cha với niềm kính yêu, xứng với chức vị cao cả là Đấng Đại Diện Chúa Kitô trên trần gian. Thế nhưng, thực sự lại có một điều rất mâu thuẫn là nhiều người bất đồng ý kiến với ngài, trong những vấn đề liên quan đến giáo lý, luân lý và truyền thống chính đáng của Giáo Hội, cũng như của các dân tộc. Những điều bất đồng ý kiến đó được xoay quanh các về các vấn đề, như luật cấm ly dị, cấm đồng tính luyến ái, cấm phá thai, cấm phụ nữ làm Linh Mục, cấm tái hôn bất hợp pháp và nhiều vấn đề khác tương tự trong lãnh vực luân lý và xã hội.

Người ta đả kích Đức Giáo Hoàng và cho ngài là người độc tài, là người thủ cựu, kỳ thị nam nữ... Căn cứ vào những bất đồng ý với các lời giáo huấn của Đức Thánh Cha và những truyền thống lành mạnh của Giáo Hội qua cuộc phỏng vấn trên đây, hoặc căn cứ vào thực trạng của đời sống xã hội, nhất là nơi dân tộc chúng ta đang sống và chịu ảnh hưởng, chúng ta phải nhận định rằng: Những hình thức tôn nhận Vương Quyền Chúa Kitô trên kia mới chỉ là cái mã tốt đẹp bên ngoài, còn phần nội tâm chính yếu thì người ta đã bỏ qua. Nhiều đạo luật của các quốc gia không những bỏ qua mà còn phản lại tinh thần Chúa, chống lại giáo huấn của Giáo Hội như: Đạo luật cho phép ly dị, cho phép phá thai, tài trợ những phí khoản khổng lồ để phá thai... Thật đúng như lời Chúa: "Không biết khi Con Người đến có còn thấy Đức Tin trên mặt đất nữa không?" (Lc 18:8)

III. CHÚNG TA LÀM GÌ CHO XỨNG HỢP

Thánh Kinh đã định nghĩa rất xác thực: "Thiên Chúa là Tình Yêu". Bản tính của Chúa là Tình Yêu. Chúa là Vua Tình Yêu, là Chúa nhưng là Chúa Hòa Bình, là Cha nhưng là Cha Nhân Từ: Chủ thuyết của Chúa là công bình, bác ái, quốc sách chinh phục các linh hồn là lòng nhân từ, là tình thương xót. Nghệ thuật quản trị của Chúa là Tình Yêu. Chúa cũng muốn nhân loại phải tôn nhận Chúa, suy phục Vương Quyền Ngài bằng tình yêu, bằng sự hiến dâng chính tình yêu, lòng yêu mến lên Ngài, như lời Ngài đã phán với Thánh Nữ Magarita Maria: "Con hãy dâng trái tim con cho Cha". Tất cả những hình thức bên ngoài để tôn vinh Chúa sẽ không có giá trị gì, nếu nhân loại không tuân giữ luật Ngài truyền, không suy phục và sống theo tinh thần Tin Mừng và giáo huấn của Ngài nơi luật của Giáo Hội, quyền giáo huấn của Đức Thánh Cha, là Đấng kế vị Thánh Phêrô và Đại Diện Chúa Kitô trên trần gian. Tất cả vũ trụ bao la, muôn loài muôn vật trên trời dưới thế đều thuộc quyền Ngài, đều do Ngài tác thành, đều ở trong quyền toàn năng bảo tồn và quan phòng an bài của Ngài... Điều Chúa khát khao là tình yêu, chúng ta chỉ có thể đáp lại tình yêu của Chúa bằng cách hiến dâng trái tim, sự thuần phục của chúng ta cho Chúa và sống theo tinh thần của Tin Mừng và giáo huấn của Giáo Hội.

Kết Luận

Là con cái Chúa, chúng ta hãy đáp lại lòng yêu thương của Chúa bằng cách thực thi các giáo huấn của Ngài, sống theo tinh thần Ngài, để đời sống chúng ta được họa theo mẫu gương đời sống thánh thiện của Chúa, tình yêu thương, lòng nhân từ, bác ái tha thứ của Ngài.

Đồng thời, chúng ta hãy nỗ lực làm tông đồ mở rộng Vương Quốc Yêu Thương của Chúa, cổ võ tình yêu thương, lòng nhân từ, bác ái tha thứ của Ngài đến với mọi người, để mọi người biết yêu thương, nhân từ bác ái tha thứ cho nhau, hầu làm cho nhân loại được trở nên anh chị em một nhà, con một Cha Chung trên trời.

 

48. Lễ Kitô Vua: Dụ ngôn hay mô tả thật.

(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)

Ngày lễ Kitô Vua, ta tưởng sẽ bắt gặp những đoạn sách thánh với đầy ắp những thuật ngữ của cung đình như Bệ Hạ, Bề tôi, Hạ thần, Triều thiên, Vương miện, thần dân, lãnh thổ, Vương Quốc … (bởi lẽ thời Cựu ước đầy dẫy các vị vua như Saule, Đavít, Salomon…). Nhưng Giáo Hội lại cho đọc trong bài I, Cựu Ước: một vị vua mục tử, tức vị vua đi chăn chiên. Trong bài đọc II, trích thư 1Cr, 15, có bóng dáng từ chiến thắng, vương quốc, nhưng lại là thắng xác chết (kẻ thù cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết) và Vương quốc trao cho Chúa Cha thì mắt trần chẳng thấy đường biên lãnh thổ. Còn trong bài Phúc Âm, Giáo Hội cho xuất hiện một vị vua thẩm phán xét xử, nhưng lại xét xử dựa trên những chuyện nhỏ mọn bình thường, ba cái lặt vặt, chứ chẳng động gì đến những chuyện lớn lao như hằng trăm ngàn tỉ (cỡ Vinashin), hoặc buôn lậu trốn thuế vỡ nợ, bể hụi vv ; và một vị vua thẩm phán xét xử nhưng lại đồng hoá chính mình với kẻ ăn xin.

Câu hỏi mà chúng ta sẽ phải trả lời là: Bài Phúc Âm của Mt 25 nói về ngày phán xét chung, phân biệt 2 hạng người bên tả bên hữu, dê với chiên, đó là dụ ngôn nói bóng nói gió hay là mô tả trước ngày phán xét chung sẽ diễn ra như vậy.

Có 3 trả lời cho câu hỏi trên. Trả lời nào cũng có tên tuổi của các nhà chú giải Kinh thánh nổi tiếng cả.

1. Không phải là Dụ ngôn, nhưng là mô tả tiên tri, báo trước ngày chung thẩm: Đức Kitô Vua sẽ xét xử thần dân của muôn thiên hạ dựa trên những việc bác ái yêu thương mà họ làm cho nhau. Bởi vì cái cốt lõi của Kitô giáo, giới răn mới của Đức Kitô là Yêu thương. Mười điều răn cũng tóm về “hai này mà chớ”, trước mến Chúa, sau yêu người. Mà theo Tin Mừng Gioan, ai nói mến Chúa mà không yêu người là nói dối, vì thế Vua Kitô sẽ xét xử theo luật. Luật Tình yêu trong những việc cụ thể: cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống…

Những chi tiết này rất khớp với “thương người có 14 mối: Thương xác 7 mối”: thứ nhất cho kẻ đói ăn, (2) khát uống, (3) rách rưới ăn mặc, (4) viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, (5) cho khách đỗ nhà, (6) chuộc kẻ làm tôi, (7) chôn xác kẻ chết…

2. Chỉ là dụ ngôn

Nhưng lối giải đáp trên cũng gặp vài khó khăn lớn: Bởi nếu số phận đời đời của mình chỉ tuỳ thuộc vào những hành vi bác ái làm cho người khác mà mình làm cũng chẳng cần biết là làm cho chính Chúa, vẫn được vào hưởng Nước Trời, thì địa vị của Đức Tin nằm ở đâu. Trong khi Tin là một điểm Chúa Giêsu rất nhấn mạnh: Ai tin thì sẽ được cứu rỗi – Ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời thì Ta sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Ta.

Nếu phán xét chỉ nhắm vào các việc bác ái, thì ta cứ hùng hục giúp người đói khát đi. Chẳng cần vào Đạo làm chi, chẳng cần đến nhà thờ làm gì, vì Chúa Kitô Vua đâu có hỏi trong ngày phán xét: người đi nhà thờ tuần mấy lần. Một năm xưng tội mấy keo?Ăn chay mỗi năm mấy bận?

Lại còn những câu nói khác cũng của Vua Kitô thẩm phán. Ai tha thứ sẽ được thứ tha (tha thứ chứ đâu phải là cho ăn cho mặc). Anh em đừng xét đoán thì sẽ không bị xét xử (không xét đoán đâu phải là cho uống cho ăn), mà vẫn được trắng án, cho qua, không xét xử.

Lại còn những tội trong tư tưởng không bị Vua Kitô Đấng thấu suốt mọi tư tưởng trong tâm hồn, không xét xử các tội đó hay sao? (Ngài nói: nhìn người nữ mà ước ao phạm tội là đã phạm tội rồi) … Tức là nếu ta cứ vung tiền ra cho kẻ đói ăn, khát uống, mà trong lòng ta chẳng thương người chút nào, thì có được xếp vào bên hữu không?

Vì thế, người ta lại coi đoạn Tin Mừng này cũng chỉ là Dụ ngôn, nhằm nói lên một khía cạnh của Nước Trời như 3 dụ ngôn mà Matthêu kể liền trước đó: Chủ nhà và quản gia tỉnh thức, 10 trinh nữ, các nén bạc.

Dụ ngôn 1 là chủ nhà và quản gia tỉnh thức, vì chủ không biết giờ nào kẻ trộm đến, còn quản gia không biết giờ chủ trở về. Phải tỉnh thức kẻo chủ sẽ ném vào nơi khóc lóc nghiến răng.

Dụ ngôn 2 là Nước Trời giống 10 Trinh nữ đi đón chàng rể, trong đó 5 cô khờ dại và 5 cô khôn ngoan. 5 cô được gọi là khôn ngoan đâu có phải vì tỉnh thức, cũng ngủ cả, nhưng khôn vì có đem theo dầu. Dầu, chàng rể, đèn đều là những ẩn ý của dụ ngôn, chứ Nước Trời thật mà như vậy thì hãng dầu nhớt Castrol sẽ không còn dầu để bán, bới ai trước khi chết cũng sắm cho bằng được một can dầu lửa đốt đèn “Hoa Kỳ”!

Đến dụ ngôn 3: những nén bạc: Khi vua trở lại sẽ tính sổ: cho coi 10 thành, 5 thành, hay phải vào nơi khóc lóc. Nén bạc, 5 thành, 10 thành … đều là những ẩn ý của dụ ngôn. Câu cuối của dụ ngôn này (25, 30) khi vua nói với đầy tớ chôn nén bạc không sinh lợi: Hãy tống nó vào nơi tối tăm, ở đó chỉ toàn khóc lóc nghiến răng (câu 30). Thì câu 31 là khởi đầu bài Tin Mừng mà anh chị em nghe hôm nay: Khi Con người hiện đến trong vinh quang có thiên thần hầu cận để xét xử. Chính vì có một loạt các dụ ngôn liên tiếp nhau như vậy, mà một số các nhà chú giải coi đây cũng là một dụ ngôn chứ không phải miêu tả sự thật.

3. Dụ ngôn nghĩa rộng.

Nếu chỉ xem đoạn tả trong bài Tin Mừng hôm nay chỉ là một dụ ngôn thuần tuý, tức là một ví dụ cho dễ hiểu thì sẽ có nguy cơ xem thường các hành động yêu thương là cốt lõi của đạo Bác ái. Vì thế lời giải thứ ba cho câu hỏi: “Bài Tin Mừng này là dụ ngôn hay mô tả thật” sẽ là: Đây là Dụ ngôn theo nghĩa rộng.

- Bởi dụ ngôn có thể là lời tuyên phán long trọng: Những gì từ ngoài vào không làm cho người ta ra nhơ uế. Nhưng chính cái từ trong con người phát ra mới làm cho nhơ nhớp.

- Dụ ngôn cũng có thể là lời khuyên về cách xử thế: khi đi dự tiệc anh em đừng ngồi vào chỗ nhất.

- Dụ ngôn cũng có thể ám chỉ một hạng người nào đó. Có 2 người lên đền thờ cầu nguyện: Biệt Phái và người Thu Thuế.

- Dụ ngôn cũng có thể chỉ là một câu tục ngữ: Thầy thuốc hãy chữa lấy mình.

- Hay dụ ngôn thường là những so sánh, ví dụ, ví dầu cầu tre lắt lẻo. Nước Trời như hạt cải, như nắm men, mẻ lưới…

Vì thế dụ ngôn theo nghĩa rộng vừa là hình bóng ví von vừa là sự thật được mô tả.

Như dụ ngôn hôm nay: phân biệt Chiên và Dê là hình bóng. Xét xử về bác ái là sự thật. Nhưng cũng vì là dụ ngôn nên cũng chỉ nói lên một phần nào đó của Nước Trời của thời Cánh chung của ngày Phán xét, tức là Bác ái yêu thương cũng chỉ là một trong nhiều khía cạnh mà Vua Kitô sẽ dựa vào mà xét xử. Và có lẽ là để xét xử “muôn dân,” những người chưa biết Chúa: “Lạy Chúa có bao giờ con thấy Chúa…” Còn người Kitô hữu chúng ta, có nhiều con đường khác nữa để chúng ta có thể lọt vào của Nước Trời như can đảm tuyên xưng Ngài (10,30), thi hành ý Cha trên trời (7,21); sẵn sàng tha thứ (6,14), không đoán xét ai (7,1) v.v…

Một nét sự thật nữa trong dụ ngôn này là Vua Kitô đồng hoá mình với người mọn hèn nhất.

Mỗi lần anh em làm như thế cho kẻ bé nhỏ nhất của Ta là anh em làm cho chính Ta. Brewer Mattocks đã có một bài thơ đại ý như sau: Một cha xứ nọ muốn trèo lên tận ngọn tháp nhà thờ để gần với mây trời thì gặp được Chúa dễ hơn vì Ngài sẽ ngự đến trong mây trời. Cha xứ hi vọng giơ tay với được Lời Ngài để đem về cho Dân Chúa. Thế rồi một ngày từ tháp cao linh mục nghe tiếng Chúa. Cha xứ vội kêu lên “Lạy Chúa, Chúa ở đâu – Lạy Chúa, Chúa ở đâu” và cha xứ nghe vọng lại tiếng Chúa: “Ta ở ngay dưới kia, trong từng người Dân Ta”.

Một linh mục trông coi xứ nọ

muốn trèo lên ngọn tháp Nhà Thờ

để, càng cao dễ gặp Chúa Trời

đem Lời Người xuống cho Dân mong chờ

Một hôm nọ cha nghe tiếng Chúa,

cha vui mừng hỏi Chúa ở đâu

Lời Ngài vọng lại từ cao:

Con ơi Ta ở nơi từng người Dân Ta.

 

49. Vua vĩnh cửu

Đức Kitô là Con Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Vì thế, Ngài không phải chỉ là vua vũ trụ, mà còn là vua của thời gian, vua vĩnh cửu.

Thực vậy, trời và đất đều thuộc về Ngài. Thời gan và vĩnh cửu cũng thuộc về Ngài. Mọi sự được dựng nên vì Ngài và cho Ngài. Trên mặt đất này, không một ai được gọi là vua vĩnh cửu và cũng không một người nào được gọi là vua vũ trụ. Bởi vì quyền hành của họ chỉ ảnh hưởng tới một phần đất nhỏ vé và trong một khoảng thời gian ngắn ngủi nào đó mà thôi.

Người ta kể lại hoàng đế Alexandre đã khóc khi nhìn lên bầu trời đầy trăng sao. Ông tức giận và buồn phiền, chỉ vỉ đã không cai trị được khoảng không trung bao la ấy. Ông chiếm cứ các lãnh thổ và mở rộng bờ cõi tới tận Ấn Độ. Người ta tôn kính ông như một vị thần. Nhà hiền triết Kallisthène đã bị chém đầu chỉ vì không chấp nhận điều đó. Nhưng Alexandre vẫn không phải là một vị vua vĩnh cửu bởi vì ông đã chết và chỉ sống được có ba mươi ba năm.

Hoàng đế Napoléon với những chiến thắng làm rung chuyển cả Âu Châu cũng không thoát khỏi số phận bẽ bàng của cái chết.

Tất cả chúng ta đều là con cái của thời gian. Có sáng chói. Thì cũng chỉ trong một khoảng khắc, sau đó cũng sẽ tàn lụi, rồi bị chìm vào đêm tối của quên lãng. Chỉ mình Đức Kitô mới cai trị đời đời. Chỉ mình Ngài mới là vua vĩnh cửu. Ngài là Alpha và Oméga. Là khởi đầu và kết thúc. Ngài đã có trước thời gian và sẽ còn tồn tại không bao giờ ngừng. Ngài cai trị trên mọi biển khơi và vương quốc của Ngài trải dài đến vô cùng.

Chateaubriand, một thi sĩ nổi tiếng người Pháp, đã kêu lên:

- Ôi lạy Chúa, trên trần gian các dân tộc xâu xé, các vua chúa sụp đổ, chỉ có mình Ngài mới trường tồn bất biến. Không một thế lực nào có thể lật đổ ngai tòa của Ngài.

Vậy chúng ta phải làm gì để tung hô vương quyền của Chúa?

Chúng ta có thể chúc tụng Vua chúng ta bằng cách quì gối, làm dấu thánh giá hay chắp tay nguyện cầu? Tốt lắm, bởi vì đó là bổn phận của chúng ta như lời sách Khải Huyền đã viết:

- Con Chiên bị sát tế xứng đáng lãnh nhận quyền năng, khôn ngoan, sức mạnh, vinh dụ và chiếng thắng.

Chúng ta cũng có thể chúc tụng Vua chúng ta bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương. Một con sâu làm rầu nồi canh. Một người lính hèn nhát sẽ làm cho cả đoàn quân phải tủi hổ. Một Kitô hữu xấu sẽ làm cho cả khuôn mặt Giáo Hội bị hoen ố. Vì thế, đừng lăn xả vào đống bùn nhơ tội lỗi, trái lại hãy thực sự là người môn đệ của Đức Kitô trong ngày Chúa Nhật cũng như trong ngày thường, trong đời sống riêng tư cũng như trong sinh hoạt xã hội.

Chúng ta còn có thể chúc tụng Vua chúng ta bằng cách rao giảng Phúc âm, làm việc tông đồ, và nhất là bằng cách can đảm làm chứng cho đức tin. Thực vậy, giữ đức tin mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải sống đức tin và phải chiến đấu cho đức tin, như lời Ngài đã nói:

- Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời.

Khi một vị tướng đi duyệt đoàn quân của mình, chúng ta sẽ thấy cái quang cảnh ấy thật long trọng và hoành tráng: nào đồng phục, nào dàn chào, nào kèn trống với những lễ nghi quân cách…

Trong ngày sau hết, Vua Kitô cũng sẽ đến. Ngài nhìn xem tất cả chúng ta đi qua trước tôn nhan Ngài: già cũng như trẻ, tu sĩ cũng như giáo dân. Ngài sẽ tra hỏi mỗi người chúng ta về lòng trung thành, về tình yêu và cuộc sống của chúng ta đối với Ngài.

Vì thế, hãy tuân giữ những điều Ngài truyền dạy và nhất là thực hiện những hành động bác ái yêu thương, để chúng ta sẽ không bị Ngài loại trừ, trái lại sẽ được Ngài đón nhận vào vương quốc vĩnh cửu của Ngài.

 

50. Phán xét

Vào ngày cuối cùng Chúa Giêsu sẽ hiện đến, uy quyền như một vị vua để phán xét tất cả chúng ta. Thế nhưng, đâu là nội dung của cuộc xét xử ấy?

Nội dung của cuộc xét xử ấy thật là bất ngờ. Ngài không xét hỏi về những việc mà người ta có thể đang chờ đợi, chẳng hạn như: có đạo hay không? Có siêng năng đọc kinh xem lễ, có ăn chay hãm mình hay không? Nhưng Ngài chỉ xét hỏi người ta về tình thương. Không phải tình thương chung chung, hay là tình thương trong ý tưởng, trong mơ ước, nhưng là một tình thương cụ thể được chứng tỏ bằng những việc làm thiết thực đối với những con người bằng xương bằng thịt. Cho kẻ đói được ăn, cho kẻ được khát uống, viếng thăm kẻ bệnh tật và tù đày, tiếp rước khách lạ bơ vơ.

Nhưng điều bất ngờ hơn nữa chính là lời Đức Kitô tuyên bố:

- Mỗi lần các ngươi làm những điều ấy cho một kẻ khốn khổ là các ngươi làm cho Ta.

Những người bị xét xử đều nhất loạt thắc mắc, người tốt cũng như kẻ xấu:

- Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói khát, rách rưới, bệnh tật, bị cầm tù hay là khách lạ đâu?

Nhưng mặc cho người ta thắc mắc, lời Chúa dạy thật rõ ràng: người khốn khổ bất cứ dưới hình thức nào đều là hiện thân của Chúa. Ngài tự đồng hóa mình với họ. Vậy thì rõ ràng mọi việc chúng ta làm vì tình thương đối với đồng loại đều là việc đạo đức hết.

Không phải chỉ có Kitô giáo mới dạy phải yêu người. Những điều đặc sắc trong Kitô giáo là gắn liền lòng thương người vào lòng mến Chúa, coi đó là nhiệm vụ tiêu biểu của người có đạo, tức là mặc cho tình thương người một tính cách tôn giáo và có giá trị cao cả nhất.

Tai hại thay nhiều người chúng ta lại không sống như thế. Nhiều lúc chúng ta chỉ lo qui hướng về Chúa mà quên đi người anh em. Chúng ta chỉ lo sống đạo trong nhà thờ mà không sống đạo giữa lòng cuộc đời. Trong nhà thờ chúng ta sốt sắng đọc kinh, nhưng ngoài xã hội chúng ta lại chửi bới, bất công và ghen ghét nhau ra trò.

Tại Đại hội Thánh Thể năm 1982 ở Lộ Đức, Đức cha Camara đã kể lại một câu chuyện như sau:

Có một số nông dân đến gặp tôi. Họ kể lại rằng một tên ăn trộm đã đột nhập vào nhà thờ, cậy cửa nhà tạm và lấy Mình Thánh mang đi. Hôm sau, họ đã tìm thấy bánh thánh nằm vương vãi trong bùn nhơ. Nói tới đây họ đã bật khóc. Rồi họ xin tôi dâng một lễ tạ ơn.

Dĩ nhiên là tôi vui lòng dâng lễ và trong buổi lễ tôi đã nói với họ đại khái như sau:

- Chúng ta thật mù quáng biết bao. Chúng ta đã sững sờ khi thấy bánh thánh nằm giữa bùn nhơ, nhưng đó lại là một hiện tượng xảy ra hằng ngày. Chúng ta gặp thấy Đức Kitô mỗi ngày trong những căn nhà ổ chuột. Đức Kitô hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh Thể và Ngài cũng hiện diện thực sự trong nỗi cùng khổ của con người.

Rõ ràng việc bác ái là thành tích duy nhất được kể đến trong ngày phán xét. Việc bác ái là chúng chỉ duy nhất để được nhận vào số những người được Chúa Cha chúc phúc. Làm việc tôn giáo mà thiếu tình bác ái thì cũng không được Chúa thừa nhận. Đức Kitô vua tình yêu. Vương quốc của Ngài là vương quốc tình yêu. Vì thế, chỉ có một cách để thực sự thuộc về Ngài là yêu thương.

Chúng ta thích mang nhãn hiệu. Nhưng chỉ có một nhãn hiệu đáng kể, đó là lòng bác ái, đó là tình yêu thương. Mọi sự sẽ qua đi, nhưng bác ái yêu thương sẽ tồn tại mãi mãi.

 

50. Chúng ta là một phần của phong trào lớn lao

Ngày đầu tiên của tháng 9 năm 1939, Hitle đã xâm chiếm Ba Lan và đặt một khởi đầu thúc đẩy chiến tranh thế giới lần thứ hai. Bây giờ chúng ta nhận biết rằng hành động xâm lược thô bạo này là hành động của một kẻ ngông cuồng, nhưng vào lúc đó ông ta đã thuyết phục được nhiều người trong quốc gia của mình, là ông ta sẽ dẫn họ đến sự vĩ đại.

Những bản năng ghê gớm này ngự trị trong trái tim con người. Một trong những bản năng đó sinh ra khát vọng là trở nên phần tử của một hội đoàn lớn lao nào đó, hay có liên quan đến một phong trào nào có thể thay đổi được lịch sử, hay trở thành bất tử thông qua việc chia sẻ một hệ thống kinh doanh lớn lao tầm cỡ thế giới.

Xuyên qua lịch sử của những người vô lương tâm, những người đã sử dụng những bản năng mạnh mẽ này. Adolf Hitler là gương đầu tiên của cái tôi kỳ quặc đã chiếm hữu những gì mà hôm nay được gọi là “thần thánh”, nó có thể thay đổi quốc gia như một chiếc đũa thần trong tay của ông. Từ sự nhận biết trong quá khứ chúng ta phải ngạc nhiên về con người có trách nhiệm và lý trí đã dễ dàng bị lừa bịp, cho nên chúng ta nhận ra rằng sự đói khát đam mê của chúng ta là muốn trở nên một điều gì đó. Bởi vì Hitler đã hiểu đam mê này. Hitler đã đặt căn bản cho những bài hùng biện trên nguyên tắc là nếu nói dối anh hãy nói dối cho đủ mạnh để mọi người tin vào sự nói dối ấy. Quả thật, ông ta đã đòi hỏi dân tộc của mình hãy đứng về phía ông ta để mục đích một nòi giống hùng mạnh có thể đạt được sự hoàn hảo.

Tội lớn nhất của Hitler không phải là hành động dã man khủng khiếp, hành động đó đã mang đến sự hành hình hàng triệu người qua những trại tập trung. Cũng không phải là sự kiện ông ta đã biến thời cuộc thành thế chiến thứ hai, mà tội lớn nhất của ông ta là tội phạm thánh, quả thật ông ta đã ước ao đặt ngai cuả mình trong quả tim con người, một chỗ mà chỉ thuộc về Đức Kitô. Hiler và những kẻ vô lương tâm giống như ông ta thì còn xấu hơn những tiên tri giả nữa. Họ là những kẻ báng bổ phạm thánh hiện diện đứng trước nơi thánh.

Đức Kitô là Vua của chúng ta đã ngự trị trên mọi tạo vật. Chỉ một mình Ngài xứng đáng để lãnh nhận ngai báu trong trái tim của chúng ta. Dù Ngài là quyền năng, Ngài không chiến thắng trên trái tim của mình và trái tim của chúng ta bằng sức mạnh của sự chinh phục.

Đúng hơn, Ngài mời gọi chúng ta trở thành dân của vương quốc đời đời và hoàn vũ của Người. Ngài không áp đặt trên bản năng của chúng ta sẽ trở nên những thành phần lớn lao; Ngài đã làm viên mãn bản năng của chúng ta.

Vương quốc của Ngài là vương quốc không có sự giả trá, lường gạt hay bởi sự phá huỷ, là vương quốc của chân lý và là sự sống. Đó là một vương quốc, không phải của sự xấu và sự lường gạt, nhưng là của sự thánh thiện và ân sủng. Đó là một vương quốc không phải của sự độc tài, chiếm hữu, oán ghét, cưỡng bức, nhưng của sự công chính tình yêu và bình an. Như là một phần tử của Giáo Hội, chúng ta được mời gọi để trở nên một bí tích cho vương quốc này, một dấu hiệu cho thế giới về những gì mà vương quốc thật sự của Thiên Chúa làm.

Vương quốc này đã hiện diện và sẽ ngự đến. Nó hiện diện ở giữa chúng ta trong những hình thức bất toàn, nhưng trong cách chúng ta sống như là những tín hữu sẽ giúp mang đời sống đó đến sự hoàn hảo khi Chúa Kitô đến một lần nữa trong vinh quang.

Chúng ta không cần trở thành một dân tộc quan trọng, cuộc sống của họ sẽ hấp thụ một lối sống đẹp, trong một đời sống tầm thường hay công việc tầm thường dẫn tới việc không thể tránh được là một cái chết vô nghĩa. Đời sống thì không ngớ ngẩn. Đời sống là một sự thông dự vào một phong trào lớn lao trong lịch sử như là một tín hữu trung thành theo Đức Kitô là Vua.

Những nài xin trung thành với Đức Kitô Vua.

Chúa nhật này là một thời gian thích hợp để nài xin sự trung thành với Đức Kitô. Theo mẩu lời kinh được đề nghị sau đây là nền tảng trong lời nguyện đầu lễ trong kinh nguyện Thánh Thể ngày lễ trọng này. Hoặc có thể được dùng trong thánh lễ khi mọi người lập lại những dòng nài xin này sau vị linh mục hoặc thừa tác viên khác.

Chúng con xin trung thành với Đức Kitô Vua.

Chúng con ao ước và âu yếm vũ trụ của Người.

Chúng con nhận biết vương quốc của Ngài là một vương quốc sự thật và sự sống, Của sự thánh thiện và ân sủng.

Chúng con cũng ước ao làm những gì chúng con có thể,

Để qua lời cầu nguyện và hành động có thể mang thế giới này về với vương quốc của Người,

Một vương quốc của bình an, công bình và tình yêu.

 

51. Hãy là môn đệ của Ta

(Suy niệm của Msgr. Edward Peter Browne – Lm. Gioan Trần Khả chuyển dịch)

Sứ Giả và Bản Tin

Tuần trước ở trang đầu của hầu hết các trang báo trên thế giới và các đài truyền hình đã có hình của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Fiedel Castro, và những lời nhận xét của Fidel Castro nói là Đức Giáo Hoàng là một con người vĩ đại, một người thu hút tuyệt vời. Nhưng suốt cả ba mươi năm qua Fidel Castro đã nỗ nực đánh phá giáo hội ở Cuba. Ông đã giết các linh mục, các nam nữ tu sỹ, đã đóng cửa nhiều nhà thờ, cấm dạy giáo lý và giáo thuyết của Giáo Hội Công Giáo, dù thế ông lại cho Đức Giáo Hoàng là một người vĩ đại. Ông yêu thích sứ giả mang tin, nhưng ông lại ghét bản tin.

Vài năm về trước chúng ta có Mẹ Têrêsa thăm đất nước của chúng ta và đã nói chuyện ở vài nơi cũng có sự hiện diện của tổng thống và phó tổng thống tham dự và các vị đã tỏ ra ngưỡng mộ mẹ Têrêsa, nói mẹ là một người tuyệt vời. Nhưng cùng lúc, họ lại ủng hộ phá thai, hợp pháp hóa phá thai, cho phá thai là điều chấp nhận được, và đã ủng hộ lối sống luyến ái đồng phái tính. Thái độ của họ là: “Mẹ Têrêsa là một người vĩ đại, một người mang tin tuyệt vời, nhưng chúng tôi không thích bản tin của bà!”

Ngay trong thời của Chúa Giêsu Kitô, dân chúng cũng có thái độ suy nghĩ giống như vậy. Họ thích người mang tin, nhưng lại không thích bản tin. Họ đã đi theo và nghe Chúa Giêsu, họ đã thấy Ngài chữa lành người yếu đau, làm cho người mù sáng mắt, nuôi hàng ngàn người ăn, nhưng khi Chúa Kitô nói với họ, “Hãy tin theo ta, hãy đến đi theo làm môn đệ của ta,” thì không, họ đã không muốn tham dự tí nào cả. Hơn thế, họ đã muốn lên án giết ngài.

Nó là một điều rất được tán đồng đối với quan điểm của thế giới ngày nay cho rằng thật tuyệt diệu để yêu thích người mang tin nhưng không thèm nghe bản tin. Có nhiều người hâm mộ Thiên Chúa, hâm mộ đức Giáo Hoàng, hâm mộ mẹ Têrêsa, nhưng họ lại không muốn làm môn sinh. Họ không muốn chu toàn trách nhiệm đi theo với bản tin.

Hâm Mộ hay Môn Sinh

Như bài Tin Mừng nhắc nhở chúng ta, chúng ta được kêu gọi để nên môn sinh của Chúa Giêsu Kitô, chứ không phải chỉ là những người hâm mộ. Chúng ta không chỉ muốn nói “đó là một ý tưởng thật hay” và rồi không chu toàn bổn phận. Chúng ta được kêu gọi trở nên các môn sinh. Chúng ta có nhiều loại, có thể nói là, tạp nhạp tín hữu Công Giáo. Có những người Công Giáo chỉ vì đã được rửa tội và không còn gì khác hơn. Ông Bà muốn bảo đảm là đứa cháu phải được rửa tội nhưng cha mẹ của con trẻ đã chẳng quan tâm đến việc nuôi nấng dạy dỗ con trong đức tin Công Giáo. Họ muốn là những người hâm mộ nhưng không phải là môn sinh. Rồi có những người Công Giáo hạng trung bình hoặc là người Công Giáo theo mùa. Họ muốn tham dự và nói, “Đúng, tôi là người Công Giáo,” nhưng họ lại không muốn tham gia tới mức độ của môn sinh. Và sau cùng là những người Công Giáo tốt, Công Giáo thực thụ, Công giáo giòng, họ không những tuyên xưng các giáo huấn của Giáo Hội, của Chúa Kitô, nhưng họ còn thực hành đức tin của mình.

Chúa nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay là thật không thể cho là đủ để chỉ là những người ngưỡng mộ, chúng ta còn phải thực hành, và trở thành các môn sinh. Chúng ta được kêu gọi làm môn sinh của Chúa Giêsu Kitô, chứ không phải chỉ là những người ngưỡng mộ ngoài cuộc. Phần nào đó nó như là một sự trái ngược nơi bài Tin Mừng hôm nay so với Tám Mối Phúc Thật, Bài Giảng Trên Núi, khi Chúa nói “Phúc cho những người nghèo khó, phúc cho những người đói, phúc cho những người khát, phúc cho những người nghèo khổ bần cùng.” Họ được chúc phúc bởi vì họ bỏ tất cả mọi cái ở thế gian vì nước Thiên Chúa. Và bây giờ Ngài lại nói phúc cho những người biết chia cơm sẻ nước cho người đói khát. Nhất là trong mùa lễ Tạ Ơn và Giáng Sinh, người ta tham gia vào các chương trình gói quà Giáng Sinh, gói quà Tạ Ơn, thu góp thực phẩm để giúp những người nghèo, bỏ thêm tiền vào gỉo thu để chúng ta có thể giúp nuôi những người đói, mua sắm áo quần cho người rách mướt, lo cho những người vô gia cư.

Những Người Được Chúc Phúc

Nhưng điều quan trọng hơn cả là chúng ta trở nên môn sinh của Chúa Giêsu Kitô. Bản tin được trao gởi đến cho chúng ta trong Tin Mừng không phải là cho ăn, cho áo, cho nước những người đói khát, mà là cho trọn vẹn về Tin Mừng. Chúng ta đói khát bản tin của Tin Mừng. Chúng ta đói tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta đói giáo huấn của Chúa Kitô, chúng ta khát tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta mong được mặc tấm áo ân sủng của Thiên Chúa. Đây chính là cách chúng ta đi đến mức sung mãn của sự sống, bằng cách trở nên các môn sinh của Chúa Giêsu Kitô, không phải chỉ là những người ngưỡng mộ ngoài cuộc, những người hâm mộ. Chúng ta được kêu gọi hôm nay để trở nên các môn sinh, những người đi theo, thi hành và kiện toàn các giáo huấn của Chúa Kitô và của Giáo Hội và rồi chúng ta sẽ được gọi là những người được chúc phúc của Thiên Chúa Cha. Xin Thiên Chúa chúc lành cho các bạn.

 nguon: http://gplongxuyen.org/News