Chúa Nhật 27/02/2022 – CHÚA NHẬT 8 THƯỜNG NIÊN Năm C. – Cái rác, cái đà.

Chúa Nhật 27/02/2022 – CHÚA NHẬT 8 THƯỜNG NIÊN Năm C. – Cái rác, cái đà.

"Miệng nói những điều đầy ứ trong lòng".

 

Lời Chúa: Lc 6, 39-45

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư? Môn đệ không trọng hơn Thầy: nếu môn đệ được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi.

"Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi có thể nói với người anh em: 'Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh', trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi? Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi.

"Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu; và ngược lại, cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái được trái vả ở bụi gai, và cũng không hái được trái nho nơi cây dâu đất. Người hiền, bởi lòng tích chứa điều lành, nên phát xuất sự thiện; và kẻ dữ, bởi tích đầy lòng ác, nên phát xuất điều ác: vì lòng đầy, thì miệng mới nói ra".

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

CHÚA NHẬT 8 THƯỜNG NIÊN C

Lời Chúa: Hc 27,4-7; 1Cr 15,54-58; Lc 6,39-45

 

1. Nghe mà không thực hành--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.

Có nhiều cách để nhận biết sự thật về một người.

Chúng ta có thể bị hấp dẫn bởi những lời giảng hùng hồn.

Chúng ta cũng có thể bị đánh lừa bởi thái độ khôn khéo giả tạo.

Đức Giêsu cho chúng ta một tiêu chuẩn để nhận ra con người thật:

“Xem quả thì biết cây” (c. 44).

Quả ở đây là đời sống thực sự của người đó, là những việc họ làm.

Nếu nhìn kỹ công việc của một người, chúng ta có cơ may biết họ là ai.

Đức Giêsu nói lên một luật tự nhiên của cây cỏ.

Cây tốt sẽ sinh trái tốt, cây bị sâu sẽ sinh ra trái không ngon.

Người công chính được nhận biết qua đời sống tốt lành của họ,

qua những thử thách họ đã vượt qua, qua những hy sinh họ dâng hiến.

Người bất chính sẽ lộ ra qua đời sống xấu xa.

Đời sống và hành động của một người phản ánh con người thật của họ.

Bụi gai không sinh được trái vả, bụi rậm không cho được trái nho.

Bụi gai và bụi rậm chẳng thể nào sinh hoa trái tốt đẹp.

Đời sống là tiêu chuẩn để nhận ra người môn đệ thật của Đức Giêsu.

Không phải chỉ là tuyên xưng đức tin vào Thầy

bằng cách kêu lên: “Lạy Chúa! lạy Chúa!”

Vấn đề là làm điều Thầy dạy (c. 46).

Đức Giêsu đặt câu hỏi tại sao đầy ngạc nhiên với các môn đệ:

Tại sao tin vào Thầy mà lại không sống điều Thầy truyền dạy?

Kitô hữu chân chính là người đến với Chúa Giêsu,

lắng nghe những lời của Ngài và thi hành những lời ấy (c. 47).

Nghe thôi thì chưa đủ.

Lời của Chúa Giêsu phải thấm nhuần vào đời sống của ta,

chi phối mọi hành động, quyết định và lựa chọn.

Đức Giêsu kết thúc Bài Giảng của mình bằng dụ ngôn về hai người xây nhà.

Nhiều người đã nghe Bài Giảng này, đã cảm thấy hay,

nhưng có bao nhiêu người sẽ thực hành những giáo huấn trong đó?

Người thực hành Lời Chúa được ví như người xây nhà có nền vững chắc.

Còn người không thực hành thì giống như người làm nhà không nền.

Bề ngoài có vẻ hai căn nhà không khác nhau.

Chỉ khi nước lụt dâng lên, và dòng nước ùa vào nhà, mới thấy sự khác biệt.

Một căn đứng vững vì có nền tử tế, căn kia bị sụp đổ tan tành.

Chúng ta thích xây nhà cao, nhưng lại ít để ý tới nền móng.

Chúng ta đã được nghe quá nhiều đoạn Lời Chúa,

nhưng vẫn chỉ dừng lại ở việc suy niệm, cầu nguyện.

Lời Chúa chưa thực sự bám rễ trong hành động và cuộc sống,

vì điều đó đòi một sự trả giá mà chúng ta muốn quay lưng.

Chính vì thế căn nhà tâm linh của chúng ta vẫn không vững.

Xin Chúa cho chúng ta can đảm để làm lại nền cho căn nhà đời ta.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.

Chúng con thường xây nhà trên cát,

vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,

nhưng lại không dám đem ra thực hành.

Chính vì thế

Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.

Xin cho chúng con

đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,

đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.

Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,

để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.

Ước gì ngôi nhà đời chúng con

được xây trên nền tảng vững chắc,

đó là Lời Chúa,

Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.

 

2. Đạo đức giả--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.

Sống ở đời chúng ta liên tục phải đưa ra những phán đoán.

Có những phán đoán về người khác: đúng, sai, tốt, xấu.

Giáo dục một người là giúp người đó có được phán đoán khách quan.

Khi Đức Giêsu dạy các môn đệ đừng xét đoán (Lc 6, 37),

Ngài không bảo họ đừng đưa ra những phán đoán hay nhận định.

Ngài cũng không coi thường những phán quyết của quan tòa.

Đơn giản Ngài chỉ muốn chúng ta tránh một khuynh hướng dễ gặp,

đó là chỉ trích phê phán, bới lông tìm vết, đối với tha nhân.

Các môn đệ sẽ phải là những nhà lãnh đạo dân Chúa.

Họ không thể là những người dẫn đường mù lòa.

Chỉ với cặp mắt sáng, họ mới có thể chu toàn nhiệm vụ,

dẫn dắt những người còn trong bóng tối ra ánh sáng bình minh.

Nếu không, mù dắt mù, cả hai sẽ sa xuống hố (c. 39).

Người lãnh đạo sáng suốt là người biết mình,

biết cái mạnh, cái yếu, cái hay, cái dở của mình.

Họ phải thấy rõ cái xà, hay thậm chí cái rác nơi mắt mình.

Thiếu thái độ tự phê phán nghiêm túc, họ không thể dẫn dắt người khác.

“Hãy biết mình” là câu được khắc ở một đền thờ nổi tiếng bên Hy Lạp.

Như thế biết mình không phải là chuyện dễ.

Chẳng ai gần mình, hiểu rõ mình bằng mình.

Nhưng nhiều khi chẳng ai mù mờ về tôi bằng chính tôi.

Lắm khi tôi chạy trốn chính mình, không đủ can đảm để thấy sự thật.

Nói chung tôi không thích nhìn nhận những bóng tối và bóng mờ nơi tôi.

Thậm chí, cái xà nơi mắt tôi, mà tôi cũng không để ý (c. 41).

Tôi chỉ muốn thấy nơi mình toàn những điều trong sáng, tốt đẹp, giỏi giang.

Càng có địa vị cao, càng thành công nhiều, càng có uy tín,

tôi càng khó chấp nhận, khó thấy những nhược điểm của mình,

Những người dưới quyền cũng không dám góp ý,

nên tôi lại càng dễ nghĩ là mình đã thực sự hoàn hảo.

Chắc chúng ta phải giúp người khác lấy rác ra khỏi mắt,

vì họ khó tự mình lấy được, và thật khó chịu khi có rác trong mắt.

Nhưng phải làm điều đó với rất nhiều yêu thương và khiêm hạ,

bởi lẽ chúng ta biết mình cũng cần anh em giúp lấy rác khỏi mắt mình.

Đơn giản là phải thấy cái rác và cả cái xà trong mắt mình trước,

nhờ người lấy ra dùm, sau đó mới thấy rõ để đi giúp người anh em.

Giúp nhau lấy rác trong mắt nhau, giúp nhau thấy rõ hơn sự thật về mình,

đó là công việc bác ái thường ngày mà chúng ta làm cho nhau.

Như thế Hội Thánh của chúng ta sẽ gồm những người sáng mắt,

nhờ biết xin người khác lấy rác ra khỏi mắt mình, và giúp họ lấy rác của họ.

Như thánh Phaolô trên đường về Đamát,

xin cho con trở nên mù lòa

vì ánh sáng chói chang của Chúa,

để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.

Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,

ánh sáng phá tan bóng tối trong con

và đòi buộc con phải hoán cải.

Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối

chỉ vì chút tự ái cỏn con.

Xin cho con khiêm tốn

để đón nhận những tia sáng nhỏ

mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.

Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý

để Chân lý cho con được tự do.

 

3. Lấy rác, lấy xà

Biết mình là chuyện không dễ.

Ở một đền thờ bên Hy Lạp có khắc câu: Hãy biết mình.

Chẳng ai gần gũi với mình bằng chính bản thân mình.

Vậy mà tôi vẫn là một bí ẩn đối với tôi.

Người ta thích làm những bản trắc nghiệm

để biết về chỉ số thông minh, về tâm lý, tính tình...

Nhưng để biết mình cần trắc nghiệm bằng cả cuộc đời.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu nói về chuyện thấy mình.

Ngài dùng lối ngoa ngữ để dạy dỗ môn đệ.

Tôi không thấy cái xà trong mắt mình,

nghĩa là không nhận ra nơi tôi một khuyết điểm trầm trọng

mà ai ai cũng thấy, trừ chính tôi.

(Tôi không thể thấy hay tôi không muốn thấy!)

Nhưng tôi lại thấy cái rác nhỏ trong mắt anh em.

Dường như thấy cái rác nhỏ nơi mắt người khác

dễ hơn là thấy cái xà nơi mắt mình.

Phải chăng vì đứng gần mình quá nên tôi không thấy rõ,

hay vì tôi vẫn coi mình là hoàn hảo

nên khó chấp nhận những thiếu sót nơi mình?

Ðể thấy mình, cần khiêm tốn hỏi và nghe người khác.

Anh em tôi biết về tôi hơn tôi biết tôi.

"Hãy để tôi lấy cái rác trong mắt anh.

Tôi vẫn thường nói như vậy và làm như vậy.

Hăng hái, vội vã giúp người khác sửa mình,

sửa cả những chuyện chẳng đáng gì.

Ðức Giêsu không cấm ta góp ý cho người khác,

nhưng Ngài dặn ta trước hết hãy lấy xà khỏi mắt mình,

để thấy rõ mà lấy rác nơi mắt anh em.

Bao dung hơn với tha nhân,

và nghiêm khắc hơn với chính mình.

Không coi cái xà của mình nhỏ hơn cái rác của anh em.

Không thổi phồng tội người khác, không thu nhỏ lỗi của mình.

Khiêm tốn sửa mình trước khi góp ý cho tha nhân.

Ðức Giêsu còn cho ta những nguyên tắc nhận định.

Nguyên tắc thứ nhất: xem quả thì biết cây.

Bụi gai không sinh trái vả, bụi rậm không sinh trái nho.

Nhìn hậu quả, ta biết được nguồn gốc, nguyên nhân.

Ðể khỏi bị lừa, hãy để ý đến hậu quả cuối cùng:

quả tốt do cây tốt, quả xấu do cây xấu.

Lắm khi ma quỷ giả dạng thiên thần sáng láng,

lừa phỉnh dụ dỗ, cho ta trái thơm ngon.

Nhưng cuối cùng trái ngon lại là trái độc.

Cần có thời gian lâu dài và theo dõi kỹ lưỡng

ta mới thấy ma quỷ lòi đuôi xấu xa của nó.

Nguyên tắc thứ hai: lòng có đầy, miệng mới nói ra.

Lời nói là hoa quả của lòng dạ con người.

Những lời giả dối sớm muộn cũng sẽ bại lộ.

Nếu chúng ta được Chúa biến đổi cái tâm của mình,

hẳn toàn bộ đời sống bên ngoài của ta cũng đổi.

Nhưng đổi bên ngoài cũng ảnh hưởng đến bên trong.

Gợi Ý Chia Sẻ

Bạn hiểu rõ về "cái xà" trong mắt bạn không? Nhờ đâu mà bạn biết được "cái xà" này?

Bạn có kinh nghiệm gì về việc "xem quả thì biết cây" và "lòng có đầy, miệng mới nói ra"?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa,

xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng

trước mọi biến cố của cuộc sống,

khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,

hay gặp sự bất trung, bất tín

nơi những người con tin tưởng cậy dựa.

Xin giúp con gạt mình sang một bên

để nghĩ đến hạnh phúc người khác,

giấu đi những nỗi phiền muộn của mình

để tránh cho người khác phải đau khổ.

Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,

để đau khổ làm con thêm mềm mại,

chứ không cứng cỏi hay cay đắng,

làm con nhẫn nại chứ không bực bội,

làm con rộng lòng tha thứ,

chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.

Ước gì không ai sút kém đi

vì chịu ảnh hưởng của con,

Không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,

lòng cao thượng, tử tế,

chỉ vì đã là bạn đồng hành của con

trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.

Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,

xin cho con có lúc thì thầm với Chúa một lời yêu thương.

Ước gì đời con là cuộc đời siêu nhiên,

tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,

và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen.

(dịch theo Learning Christ)

 

4. Lời nói-Việc làm-Ơn Chúa--Giải Nghĩa Lời Chúa--GM Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm

Ðọc và nghe lần đầu, chúng ta khó bắt được ý tưởng của các bài Kinh Thánh hôm nay. Ðó không phải là những lời khó hiểu. Những ý tưởng sở dĩ không dễ bắt vì cấu trúc của những đoạn văn này không chặt chẽ, và các tác giả dường như nói đến những vấn đề rất khác nhau. Chúng ta đừng lấy làm lạ vì trong các Chúa nhật quanh năm, phụng vụ muốn giáo dục chúng ta về đời sống đạo mỗi lần một tí và không cần theo một hệ thống nào. Vì đạo là sự sống chứ không phải là một hệ tư tưởng. Ðối với một hệ tư tưởng, muốn thuyết minh người ta phải theo luận lý đầu đuôi chặt chẻ. Còn đối với sự sống, không có quy luật tăng cường cố hữu nào. Mỗi chân lý đều co thể biệt lập mà vẫn có thể mồi thêm cho sự sống tinh thần của con người.

Tuy nhiên chúng ta có thể nói rằng ba bài Kinh Thánh hôm nay đều muốn nói đến việc phân biệt con người đạo đức thánh thiện, nhờ lời nói, nhờ việc làm, và nhất là nhờ ơn Chúa.

1. Lời nói

Bài sách huấn ca không có vẻ gì là đạo đức cả. Ðó là mấy câu kinh nghiệm. Nó thuộc loại văn khôn ngoan, dạy cách xư xử ở đời. Nhưng nếu đặt những câu dạy khôn ngoan này vào văn mạch và luận lý của tác giả, chúng ta thấy chúng phục vụ đạo đức và rất có giá trị.

Tác giả Ben Sira là một học giả Do Thái, sống ở đầu thế kỷ II trước công nguyên. Như các nhà trí thức đương thời ông hiểu biết nền văn minh Hy Lạp đang thịnh hành ở mọi nơi. Nhưng vì là con người có đạo, ông biết dùng lời Chúa để phê phán nếp sống do nền văn minh ấy tạo ra. Và ông muốn chia sẻ các suy nghĩ của mình với đồng đạo và đặc biệt với lớp trẻ Do Thái đang lớn lên và hít thở nền văn minh Hy Lạp. Ông đã đưa ra nhiều nhận xét mới về đời sống gia đình (25,1-26,18). Ông đã đề cập tới nhiều nét trong đời sống xã hội, mà nổi bật nhất là nền mậu dịch, thương mại thời bấy giờ (26,28-27,15).

Ðây là điểm bén nhậy đối với người Do Thái. Họ biết làm ăn. Có thể nói họ có máu buôn bán. Việc tiếp xúc với văn hóa Hy Lạp đã tạo nên nơi các cộng đồng Israen nhiều trung tâm thương mại nổi tiếng.

Tại đây người Do Thái buôn bán với dân ngoại. Họ không còn sợ luật pháp và để ý đến các tiêu chuẩn đạo đức nữa. Có thể nói họ như cảm thấy được ra khỏi đạo và các ràng buộc xưa nay của lương tâm công giáo. Chỉ còn một luật chi phối công việc làm ăn của họ là: mua rẻ bán đắt. Và cho được như vậy, môi mép và lời nói là phương tiện được sử dụng tối đa. Các tiên tri đã nhiều lần lên án các thói buôn gian bán lận và đời sống bê bối của các thương gia. Ben Sira cũng nhất trí cảnh cáo: giữa bán và mua tội chen vào giữa. Ông không thích doanh thương vì buôn bán làm sao vô tội? Nhưng ông chẳng cấm được. Và dường như ông biết lời khuyên chẳng công hiệu gì nơi tại kẻ đếm tiền. Có lẽ vì vậy ông quay sang nói với khách hàng, với những người dân vô tội phải đến mua ở các cửa tiệm. Ông thấy họ nhiều khi đã trở thành mồi ngon của các con buôn. Và như vậy chỉ vì họ dễ bị lời nói mua chuộc. Vừa nghe con buôn quảng cáo hàng hóa là họ đã sa bẫy. Thế nên trong đoạn văn vắn tắt này Ben Sira khuyên người ta đừng vội tin lời nói của con buôn. Hãy để cho nó nói mãi đi, cuối cùng điều nó che giấu sẽ lòi ra. Chẳng khác gì cứ sàng mãi, trấu bẩn sẽ còn lại và gạo sẽ lọt xuống... Và cũng như cứ đi qua lò, thì đồ sành thợ gốm sẽ được hay không. Hoặc cũng như phải chờ khi có quả mới biết cây dại hay cây tốt. Và Ben Sira kết luận cứ thong thả nghe lời biện luận của con người sẽ biết tâm tư của họ. Thành ra không nên vội phán đoán một ai trước khi nghe nhiều lời người đó nói.

Như vậy từ thái độ phải có đối với người mua bán, tác giả đã dẫn chúng ta sang thái độ phải có đối với mọi người: đừng vội tin ai và phê phán ai trước khi nghe người đó nói, bởi vì tâm tư con người lộ bày khi biện luận. Tác giả có lạc quan quá không? Có thể luôn luôn căn cứ vào lời nói của con người mà đánh giá họ không, cho dù không phải là tin vào một lời, nhưng là đã nghe người ấy luận lý rất nhiều? Tác giả Luca dường như không hoàn toàn tin như vậy. Người đưa thêm một số tiêu chuẩn nữa để hiểu biết con người như trong bài Tin Mừng sau đây.

2. Việc làm

Chúng ta bảo Luca là tác giả của bài Tin Mừng này, mặc dù đây là Lời Chúa đã thốt ra từ miệng Chúa Giêsu Kitô. Chắc Chúa đã không nói tất cả những lời này một lần và không theo một thứ tự như ở đây. Rõ ràng chẳng có một thứ tự luận lý nào để khẳng định Chúa đã nói luôn một lần những điều ít ăn khớp với nhau. Cũng như tư tưởng này và những câu văn như thế, trong sách Tin Mừng Mátthêu chẳng hạn, lại nằm ở những chỗ khác và phục vụ những chủ đề khác. Như vậy chúng ta có thể nói được rằng, tác giả Luca đã dùng những câu Chúa nói ở những trường hợp khác nhau đem xếp cả vào chỗ này để phục vụ một chủ đề nào đấy.

Nếu chúng ta còn nhớ, thì Chúa nhật trước chúng ta cũng đã đọc sách Tin Mừng của Luca. Ðoạn trích hôm nay tiếp theo bài đọc lần trước. Thế mà hôm đó chúng ta đã thấy rằng Chúa dạy chúng ta phải yêu thù địch, không còn được duy trì đầu óc kỳ thị và phân biệt, và phải coi mọi người là con cái một Cha trên trời và hết thảy là anh em của nhau. Hôm nay dường như tác giả Luca muốn tiếp nối tư tưởng trên và nói đến thái độ bác ái ngay trong cộng đoàn các môn đồ của Chúa, tức là chính trong lòng Hội Thánh và Giáo Hội.

Chắc chắn câu đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay phải hiểu về các người lãnh đạo cộng đoàn tức là hàng giáo sĩ: linh mục, giám mục hiện nay của chúng ta. Thực ra câu văn có thể dùng trong một trường hợp khác. Và trong Mátthêu câu này đã được tuyên bố về giới tư tế, lãnh đạo trong Do Thái giáo. Họ là những người mù dẫn đàng cho người mù. Nguyên khởi đó chỉ là một câu cách ngôn. Chúa Giêsu có lần dùng để nói về luật sĩ và biệt phái vì họ không biết mở mắt đón nhận đường lối của Thiên Chúa đang bày tỏ nơi công việc của Ðấng Ngài sai đến. Họ ở cương vị lãnh đạo mà mù thì dẫn đàng chỉ lối cho người khác sao được?

Tác giả Luca nhớ có lần Chúa nói như vậy. Nay đang viết những lời Người khuyên bảo môn đồ, Luca sực nhớ câu đó. Người thấy nó vẫn hợp để nói với giới lãnh đạo trong Hội Thánh. Những người này cần nhớ rằng: ở cương vị lãnh đạo, họ phải sáng suốt. Ðó là thái độ bác ái quan trọng nhất họ phải thi hành cho những người được trao phó cho họ.

Nhưng trong Hội Thánh, không phải chỉ có các nhà lãnh đạo. Ðại bộ phận Dân Chúa được gọi là môn đồ. Và tư cách đầu tiên, thái độ bác ái cơ sở của người môn đồ nằm trong quan hệ với Thầy mình. Môn đồ không lẽ hơn Thầy, hoàn bị là mọi kẻ sẽ được như Thầy. Lời này thoạt nghe có vẻ chua chát, nhưng nếu nhớ Thầy của các môn đồ chính là Chúa Giêsu Kitô, thì đây là cả một lý tưởng cao cả: môn đồ phải cố gắng nên hoàn bị như Thầy.

Sau hai câu nói với hai hạng người trong Hội Thánh, những câu sau có thể nói, mới thật sự vào đề và muốn dạy dỗ mọi thành phần trong cộng đoàn tín hữu. Họ không nên để ý đến khuyết điểm của anh em trước, nhưng trước hết hãy muốn nhờ anh em giúp mình sửa đổi tính hư nết xấu. Nếu làm như vậy chắc chắn sẽ không có cãi cọ bất bình; một cộng đoàn như thế chắc chắn mỗi ngày một hoàn toàn hơn. Ai mà không có cảm tình yêu thương đối với người muốn sửa mình? Bác ái cộng đoàn được xây dựng chắc chắn nhất, khi các phần tử trong cộng đoàn luôn ý thức bổn phận phải sửa mình, trước khi nói đến các khuyết điểm của anh em. Nhất là khi trong cộng đoàn ấy, ai cũng theo gương Chúa mà sửa mình như trên vừa nói: hoàn bị là mọi kẻ sẽ được như Thầy?

Thế nên người tốt phải chứng tỏ qua việc làm. Chúng ta đừng tưởng ở đây Luca mâu thuẫn hoặc nói khác với tác giả sách Huấn Ca. Cả hai đã trích câu tục ngữ: Xem quả biết cây. Nơi tác giả sách Huấn Ca, lời nói và biện luận là quả do tâm tư con người. Luca công nhận điều ấy vì ở đây người cũng viết: lòng ứa đầy những gì thì miệng nói ra. Nhưng lời nói nơi Luca không phải chỉ là các âm, các tiếng, mà còn là tất cả mọi việc mà con người làm. Các việc này cũng bày tỏ "lòng" người ta, vì "người lành tự kho lành lòng mình mà đem ra sự lành, và người dữ tự tính ác mà đem ra sự ác".

Như vậy Luca muốn đầy đủ hơn tác giả sách Huấn ca. Người khiến chúng ta nên giải thích bài sách này một cách rộng rãi nhưng vẫn hợp ý với tác giả. Như chúng ta biết, ông viết những lời trên là để cảnh giác con cái Israen đề phòng sự gian dối của phường mua bán. Và sở dĩ như vậy vì ông thấy quá nhiều bất công và tội lỗi trong việc mua đi bán lại. Ông muốn xã hội công bằng huynh đệ hơn.

Vì thế chúng ta có thể hiểu bài sách Cựu Ước hôm nay về lòng bác ái. Cũng như bài Tin Mừng vậy. Nhưng ở một mức độ sâu sắc hơn. Tác giả sách Huấn Ca thấy thiếu bác ái trong việc mua bán. Tác giả Luca còn nhìn thấy trong thái độ người ta hay phê bình và chỉ trích nhau. Cuối cùng cả hai đều công nhận phải sửa chữa từ tâm tư và từ "lòng" con người. Do đó muốn biết người tốt, phải xem lời nói, phải xét việc làm. Nhưng muốn có lời tốt và việc lành, phải sửa đổi tâm tư và lòng trí, là con người bên trong của chúng ta. Có thể làm công việc này không?

3. Ơn Chúa

Theo thánh Phaolô trong bài thư hôm nay, khi xác hay chết này mặc lấy sự trường sinh, thì bấy giờ con người mới thực sự công chính. Và đức bác ái yêu thương mới trọn vẹn. Ðối với chúng ta dĩ nhiên là như vậy rồi. Nhưng các độc giả trực tiếp của thánh Tông đồ, tức là những người Côrintô thời bấy giờ, chân lý ấy nên được giải thích rõ ràng hơn. Bởi vì họ là những người Hy lạp tòng giáo. Ít ra họ là các tín hữu mới mẻ đang hít thở bầu khí văn hóa Hy Lạp. Những người này quan niệm xác và hồn nơi con người là hai yếu tố rất dị biệt, chẳng thể hòa hợp với nhau. Hồn ở trong xác như ở trong tù, chỉ chờ đợi ngày thoát ra khỏi xác để được trở về sống như những thần linh, bởi vì trước kia linh hồn cùng ở chung với các thần thánh, nhưng đã sa đọa nên rơi vào xác thịt và bị giam ở đó. Thành ra bao lâu còn sống trong xác thể, linh hồn còn khổ sở và ấm ức. Con người không có sự hòa hợp ngay trong chính mình, nên cũng chẳng có hòa hợp được trong xã hội. Linh hồn đợi ngày giải thoát ra khỏi thân xác.

Quan niệm như vậy không hợp với đức tin. Ðành rằng xác thịt con người hiện nay là mồi cho sự chết. Nhưng chết không phải là hết. Nhờ sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô, thân xác con người cũng sẽ sống lại. Không phải để rồi lại sống như trước đây, nhưng để trường sinh bất tử như "thần thánh". Và sở dĩ như vậy là vì xác thể con người sẽ mặc lấy sự bất hoại, là đặc tính của Thiên Chúa. Lúc ấy con người sẽ ca khúc khải hoàn chế nhạo sự chết: Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu, ngươi đã dùng tội lỗi làm nọc sát hại con người. Và tội lỗi đã tỏ ra mãnh liệt trong chế độ Lề luật, toàn là cấm đoán mà không có cứu độ. Nhưng nay Chúa Giêsu Kitô đã đem ơn cứu độ đến, tẩy sạch tội lỗi, làm vô hiệu nọc của tử thần, khiến con người có Ơn Chúa không còn chết nữa.

Như vậy ơn của Chúa Giêsu Kitô cứu sống chúng ta khi tiêu diệt tội lỗi, và ban cho ta sự sống mới, sự sống của Thiên Chúa thay thế sự sống của xác thịt tội lỗi trước đây. Do đó ai muốn nên công chính, muốn sống bác ái yêu thương phải để cho Ơn của Chúa Giêsu Kitô biến đổi tâm tư và lòng trí. Và công việc này phải làm trong kiên nhẫn, không nao núng. Phải nhờ làm thêm nhiều việc lành, mà thánh Phaolô gọi là việc của Chúa.

Như vậy, người tốt không phải ở lời nói, nhưng ở việc làm, và nói rõ hơn, ở việc làm của Chúa. Ơn của Chúa là yếu tố cuối cùng quyết định sự công chính của con người chúng ta vậy. Và ơn của Chúa phong phú nơi các Bí Tích, đặc biệt trong mầu nhiệm thánh lễ. Nơi đây Chúa ban cho chúng ta bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng, để chúng ta có sức sống của Thiên Chúa, làm được các việc Chúa là các việc lành, hầu tâm tư, lòng trí chúng ta dần dần được cải hóa nên công chính. Chúng ta sẽ có những lời nói việc làm đầy bác ái yêu thương. Không những đời sống bản thân sẽ đạo đức hơn mà đời sống xã hội cũng công chính hơn. Bài thư Phaolô giúp ta đạt được những điều nhắn nhủ trong hai bài sách Huấn Ca và Tin Mừng vậy.

 

5. Đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa đoán xét--Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH:

Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su dạy môn đệ 3 điều:

- Phải biết tự sửa lỗi của mình trước khi sửa lỗi cho tha nhân.

- Xem quả biết cây: hành động của một người sẽ chứng tỏ họ là người tốt hay kẻ xấu.

- Lòng người giống như một cái kho. Các môn đệ Đức Giê-su cần đón nhận Lời Chúa trong lòng để từ đó phát sinh những lời nói và việc làm tốt.

CHÚ THÍCH:

- C 39-40: + Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?: Trong Tin Mừng Mát-thêu (Mt 15,14), câu “Mù sắt mù: này nhắm đến các đầu mục dân Do thái là các Kinh sư và người Pha-ri-sêu, là những người lãnh đạo tinh thần của dân nhưng đã bị thói kiêu căng, tự mãn làm cho ra mù lòa, không còn phân biệt được trong Luật Mô-sê điều nào là chính yếu điều nào là tùy phụ khi dạy dỗ dân chúng. Còn trong Tin Mừng Lu-ca, câu này nhằm dạy các môn đệ Đức Giê-su phải biết phân biệt trong tư tưởng lời nói và việc làm, đâu là điều chính yếu đâu chỉ là tùy phụ để khỏi bị lầm lạc khi dẫn dắt tha nhân. Những kẻ ăn nói khoác lác, giả đạo đức chỉ nhất thời lừa được một số người nhẹ dạ dễ tin, nhưng sớm muộn rồi sẽ phải chuốc lấy hậu quả tai hại khôn lường khi con người thật của họ bị lộ ra.

- C 41-42: + Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới?: Người ta thường keo kiệt trong lời khen, nhưng lại rộng rãi trong lời chê. Một trong những tội con người thường vấp phạm là thích xét đoán ý trái và kết án tha nhân. Môn đệ cần tránh "bới lông tìm vết" để phê phán các khuyết điểm nhỏ bé như cái rác nơi mắt anh em. Nhưng cần ý thức về "cái đà" kiêu căng tự mãn, thói đạo đức giả nơi bản thân để tu sửa, hầu mắt mình nên trong sáng trước khi sửa lỗi anh em.

- C 43-45: + "Không có cây nào tốt mà lại sinh quả sâu, cũng chẳng có cây nào sâu mà lại sinh quả tốt: Các môn đệ chỉ sinh ra hoa trái tốt đẹp, nếu năng suy niệm và thực hành Lời Chúa. Những ai có tính ích kỷ kiêu ngạo thường hay xét đoán ý trái, kết án tha nhân. Sớm muộn họ cũng sẽ bị chết trong bóng tối gian ác của lòng mình. + Thật vậy, xem quả thì biết cây: Người tốt sẽ chứng tỏ sự tốt lành của mình qua hành động bên ngoài. + Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra: Tư tưởng chứa đầy trong lòng sẽ phát lộ ra qua lời nói và hành động, nên người ta chỉ cần dựa vào lời nói việc làm của một người mà nhận biết họ có phải là môn đệ đích thực của Đức Giê-su hay không.

CÂU HỎI: 1) Hai câu “Mù dắt mù” của Đức Giê-su trong Tin Mừng Mát-thêu và Lu-ca nhắm tới những đối tượng nào? 2) Khi nói “Cái rác trong mắt anh em” và “Cái xà trong mắt của mình”, Đức Giê-su muốn dạy môn đệ điều gì trong giao tiếp xã hội? 3) Để lời nói việc làm có thể phát sinh hoa trái tốt đẹp thì người ta cần phải làm gì?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người anh em: "Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra", trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc 6,41-42).

2. CÂU CHUYỆN:

1) Hậu quả tai hại của kẻ nói hay nhưng làm không hay:

Triệu Quát là con trai của Triệu Xa - một danh tướng thời Chiến Quốc. Thời trai trẻ anh để tâm nghiên cứu học hỏi rất nhiều binh thư. Là một người thông minh, lại có năng khiếu về các đề tài quân sự, nên Quát thường chiến thắng trong các cuộc tranh luận, kể cả với cha anh là Triệu Xa. Từ đó Triệu Quát sinh ra kiêu ngạo, cho mình là người giỏi nhất thiên hạ. Tuy nhiên ông bố Triệu Xa của anh lại rất lo cho tương lai của con trai mình. Ông đánh giá Triệu Quát chỉ là hạng người ăn nói giảo hoạt thích nói thánh nói tướng, Ông còn nói: "Sau này nước Triệu không nên cho nó cầm quân, kẻo nó sẽ làm cho quân đội bị đại bại".

Quả thật, về sau khi quân Tần kéo sang xâm lược nước Triệu, vua nước Triệu cử Triệu Quát thay Liêm Pha làm đại tướng chỉ huy chống lại quân địch. Lạn Tương Như dù đang ốm cũng lên tiếng phản đối như sau: "Triệu Quát chẳng qua chỉ là thứ mọt sách và không có kinh nghiệm vận dụng binh pháp vào thực tế, nên không thể chỉ huy ngoài mặt trận được". Mẹ của Triệu Quát cũng đến xin vua Triệu đừng cho Quát làm đại tướng. Nhưng vua Triệu không nghe, vẫn cử Triệu Quát ra tiền tuyến nghênh địch. Hậu quả là 40 vạn quân Triệu chỉ trong thời gian ngắn đã bị quân Tần đánh bại và bị tiêu diệt hoàn toàn, bản thân Triệu Quát cũng bị chết thảm.

Cha mẹ của Triệu Quát đã hiểu rõ con trai mình không thể đảm nhận được việc lớn điều binh khiển tướng. Nhưng vua Triệu lại cố chấp khi chỉ dựa vào lời nói của Triệu Quát để đánh giá anh là bậc kỳ tài trong thiên hạ và trao cho anh trách nhiệm lớn thống lĩnh quân đội. Kết quả không chỉ Triệu Quát bị hại mà còn liên quan đến tính mạng của 40 vạn quân. “Mù dắt mù” thì việc bị “lăn cù xuống hố” chỉ là chuyện sớm hay muộn mà thôi.

2) Hãy sửa lỗi mình trước khi sửa lỗi anh em:

Trong một tu viện kia có một tu sĩ trẻ đã phạm một tội nặng, lập tức các tu sĩ trong cộng đoàn liền họp nhau lại để kết tội anh ta. Họ cử người đi trình báo sự việc với Bề Trên và mời ngài đứng ra làm quan tòa xét xử. Bề Trên liền đeo một túi cát sau lưng, trên túi có nhiều lỗ thủng đi đến nhà hội. Trên đường đi đến đâu đều có nhiều cát từ túi cát đeo sau lưng bị rơi vãi. Khi có người thắc mắc tại sao lại để cát rơi như vậy thì được bề trên trả lời: "Tôi cũng là người có nhiều tội lỗi mà không tự nhận biết, đang khi mọi người chung quanh đều thấy. Thế mà anh em lại bảo tôi làm quan tòa kết tội một người anh em sao!" Nghe vậy, các tu sĩ trong cộng đoàn đều thấy xấu hổ và bỏ ý định muốn kết án anh tu sĩ trẻ mà chỉ yêu cầu anh ta sửa lỗi.

Ai trong chúng ta cũng có thói hay xét đoán và kết án tha nhân. Nhưng Đức Giêsu lại dạy chúng ta “đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa đoán xét. Đừng kết án để khỏi bị Thiên Chúa kết án”. Để có thể sửa lỗi anh em thì trước hết phải khiêm tốn nhận biết tình trạng tội lỗi của mình để tu sửa, giống như lấy đi cái xà ra khỏi mắt mình, rồi mới thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.

3) Cần năng xét mình và quyết tâm sám hối để ngày một hoàn thiện hơn:

Một người kia có thói quen hút thuốc và trong nhà có nuôi một con vẹt làm thú cưng. Một ngày kia anh thấy con vẹt của anh cứ ho khù khụ. Anh liền mang con vẹt đến bác sĩ thú y xin chữa bệnh ho cho con vẹt. Sau khi khám kỹ, bác sĩ tuyên bố con vẹt không bị bệnh gì cả. Sở dĩ nó ho khù khụ là do bắt chước những cơn ho khù khụ của ông chủ. Bấy giờ người ấy mới biết mình đang bị bệnh ho chứ không phải con vẹt. Từ khi anh quyết tâm cai thuốc và uống thuốc chữa trị hết bệnh ho, thì con vẹt của anh cũng không còn ho khù khụ như trước nữa!

Những kẻ đạo đức giả thường hay lên mặt phê bình sửa lỗi người khác, còn người đạo đức thực sự sẽ khiêm tốn tự kiểm để tìm ra các thói hư của mình mà tu sửa nên hoàn thiện hơn.

4) Nguyên nhân đổi đời của con tê giác:

Ngày xưa có một chú tê giác luôn nghĩ mình có khuôn mặt đẹp nên thường chê khuyết điểm của các con vật khác, nhất là các con có sừng trên đầu. Thế nhưng tê giác lại không biết rằng chính nó cũng đang có một cái sừng mọc trên mũi khiến mặt nó trông thật xấu xí. Các con vật khác tuy biết điều này, nhưng không con nào dám nói sự thật cho tê giác biết.

Một hôm, tê giác đang uống nước ở một dòng suối thì nghe thấy lũ chim chích choè đang thi nhau hót líu lo trên cành cây gần đó. Tê giác rất bực bội nên ra oai thét to: "Lũ chim xấu xa kia có câm miệng đi không? Chúng bay không thấy ông đang uống nước đây sao?". Lũ chim chích choè không chịu thua, con chim đầu đàn liền cãi lại: "Bộ ông nghĩ ông đẹp lắm sao? Ông thử soi mặt mình trên mặt nước thì sẽ biết". Tê giác nghĩ bụng: "Soi thì soi. Ai mà không biết ta có khuôn mặt đẹp nhất". Nhưng khi nhìn xuống mặt nước, tê giác nhà ta giật mình khi thấy một chiếc sừng quái dị đang nằm chình ình ngay trên mũi mình. Khi biết mình còn xấu hơn nhiều con vật có sừng khác, tê giác mang mặc cảm xấu hổ. Từ đó, mỗi khi di chuyển, nó luôn cúi gằm mặt xuống đất và ẩn nấp trong các lùm cây, không muốn chường mặt ra cho các con vật khác xem thấy. Nhưng do không thể trốn mãi được vì ngày nào cũng phải ra dòng suối uống nước và phải đi kiếm thức ăn. Cuối cùng nó đành chấp nhận sự thật về khuôn mặt xấu xí có sừng của mình để sẵn sàng đối diện với các con vật khác. Cũng từ ngày đó, tê giác kiêu hãnh ưa chỉ trích trước đây đã biến thành anh tê giác rất hiền hòa dễ thương.

Tê giác trong câu chuyện trên đã thay đổi nên tốt nhờ biết chấp nhận sự thật của mình để không lên mặt phê phán các loài vật khác theo suy nghĩ chủ quan của mình. Nhờ đó nó cũng bỏ đi mặc cảm tự ti, để sẵn sàng gặp gỡ tiếp xũc với các loài vật khác.

3. SUY NIỆM:

1) Phải tránh bệnh mù tâm linh:

“Mù dắt mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố” là một thực tế thường xảy ra trong cuộc sông. Vì thế người mù luôn cần được người sáng mắt trợ giúp để đi đúng hướng và không bị vấp ngã hay đi lạc. Về mặt tâm linh người mù tâm hồn sẽ dễ quyết định sai lạc không những gây hại cho bản thân mà còn tác hại khôn lường cho xã hội. Tuy nhiên, thực tế vẫn có nhiều người mù tâm linh lại không nhận ra mình đang bị mù. Chính do thói xấu tự mãn kiêu ngạo khiến người ta luôn coi mình là trung tâm, suy nghĩ của mình là chân lý, và đánh giá người khác theo tầm nhìn hạn hẹp của mình. Đây chính là nguyên nhân gây ra bao nỗi đau khổ cho nhân loại. Về mặt xã hội, những kẻ mù tâm linh “hữu tài vô hạnh” thường trở thành những quan tham, những kẻ độc tài gây bao đau thương cho tha nhân.

2) Phải tránh xét đoán ý trái cho người khác:

"Sao anh thấy cái rác trong mắt anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới" (Lc 6,41). Người ta thường hà tiện trong lời khen, nhưng lại quảng đại trong lời chê. Có thể nói một trong những tội con người thường sai phạm là thói hay xét đoán, nghĩ xấu, nghĩ quấy cho người khác, nhất là cho những kẻ mình không ưa.

Người xưa có câu: "Việc người thì sáng, việc mình thì quáng", nên việc nhìn lại bản thân để tự kiểm cần phải làm hằng ngày đối với các người tín hữu, nhất là những ai đang giữ vị trí lãnh đạo, có sứ mệnh hướng dẫn các tâm hồn. Chúng ta hãy bắt chước thánh Au-gút-ti-nô dâng lời cầu nguyện như sau:

"Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con".

Xin Chúa cho con:

Biết mình cũng yếu hèn và hay sai lỗi, để con không lên mặt xét đoán và kết án anh em.

Biết mình hay che đậy và giả hình, để sẵn sàng cảm thông và bỏ qua lỗi lầm của kẻ khác.

Biết mình thích được khen khi làm được việc tốt, để con năng khen ngợi động viên người khác.

3) Hãy tự sửa lỗi mình trước khi sửa lỗi anh em:

Người ta thường dễ phát hiện các khuyết điểm lỗi lầm dù nhỏ bé của người khác mà khó nhận ra sai lỗi lớn lao của mình. Nguyên nhân là do chúng ta có thói ích kỷ tự mãn nên bị mù quáng và hay xét đoán kết án anh em.

Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta: Đừng vội kết án tha nhân vì chính mình cũng có đầy khuyết điểm, như người xưa dạy: “Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”. Tuy nhiên nếu là người giữ địa vị lãnh đạo trong gia đình, học đường hoặc xã hội, có trách nhiệm giữ gìn kỷ cương, thì chúng ta cũng cần sửa dạy những người sai lỗi. Khi đó để lời sửa dạy có sức thuyết phục và đạt kết quả, đòi chúng ta phải sửa mình trước khi răn dạy kẻ khác.

Một nhà thần bí Ấn độ đã phát biểu kinh nghiệm của mình như sau: "Tôi là một nhà cách mạng khi còn trẻ, và tất cả những gì tôi cầu với Chúa là: "Lạy Chúa, xin cho con quyền lực để con cải tạo thế giới ngày một nên tốt hơn". Rôì khi tới tuổi trung niên, tôi nhận ra rằng nửa cuộc đời đã qua đi rồi mà tôi vẫn chưa cải tạo được thế giới, nên tôi đã đổi lại lời cầu: "Lạy Chúa, xin cho con hoán cải những người con có dịp tiếp xúc”. Bây giờ tôi đã về già và sắp kết thúc cuộc đời, tôi thấy mình cũng vẫn chưa biến đổi được một ai, nên cảm thấy mình thật khờ dại. Vì thế tôi lại thay đổi lời cầu như sau: "Lạy Chúa, xin cho con được ơn hoán cải chính mình con". Giả như ngay từ khi còn trẻ tôi đã ý thức về sự bất lực của mình như thế, thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời cách vô ích mà sẽ tập trung để cải tạo bắt đầu từ chính bản thân trước".

4) Chúng tôi phải làm gì?:

Trong cuộc sống, chúng ta thường hay phán xét người khác bằng lời nói, cử chỉ thái độ và luôn đánh giá không tốt về họ. Nhất là những khi chuyện trò với bè bạn, chúng ta thường khoe thành tích của bản thân hay người thân để tự đề cao mình hay đề cao gia đình mình và thường chê trách những người tự nhiên ta có ác cảm. Về vấn đề này, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã dạy: “Những ai phán xét anh chị em mình, nói xấu anh chị em mình thì họ chính là kẻ giả hình. Vì họ không đủ can đảm nhìn lại những thiếu sót, lỗi lầm của bản thân mình”. Đức Giê-su trong cũng dạy các tín hữu: “Sao ngươi nhìn thấy cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy?… Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi”.

Khi phê phán chỉ trích, kết án một người nào đó là chúng ta đã biểu lộ sự ác cảm thù ghét họ. Những người có tình yêu thương sẽ không xét đoán ý trái hoặc kết tội người mình yêu thương, nhưng sẽ biểu lộ sự khoan dung tha thứ, sẽ luôn xét đoán ý tốt, trở thành luật sư bào chữa lỗi lầm thay vì làm công tố viên buộc tội cho họ, Để luôn xét đoán ý tốt cho tha nhân, chúng ta hãy xin Chúa gia tăng tình thương trong lòng chúng ta. Nhờ đó, chúng ta sẽ đối xử khoan dung nhân hậu với những kẻ thù ghét mình để xóa bỏ thù hận, biến thù thành bạn của mình.

4. THẢO LUẬN:

Để chu toàn sứ mạng loan báo Tin Mừng, Đức Phao-lô Đệ Lục đã nói: “Con người ngày nay thích nghe nhân chứng hơn thầy dạy. Nếu họ có nghe thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân”. Trong những ngày này chúng ta sẽ làm gì để đem Chúa đến với anh em lương dân?

5. LỜI CẦU:

Lạy Chúa Giêsu. Xin giúp con thực hành Lời Chúa trong thư thánh Phao-lô: “Lời có ích lợi cho việc dạy dỗ, biện bác, sửa trị và rèn luyện trong công chính: để người của Thiên Chúa trở nên trọn hảo và sẵn sàng thực hiện mọi việc lành.” (2 Tm 1,16–17); Xin cho con có đôi mắt của Chúa, để con nhìn anh em như là hồng ân và là quà tặng Chúa ban; Xin cho con có trái tim của Chúa, để sống yêu thương với lòng bao dung tha thứ và biết xót thương tha nhân. Và cuối cùng xin cho con học nơi Chúa sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng để con nên chứng nhân cho tình thương của Chúa trước mặt người đời. Amen.

 

6. Không biết về chính mình—Lm Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.

“Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga.14, 6). Một người vô cùng đặc biệt lại chấp nhận thân phận của một con người “bình thường” và sống rất “bình thường”, trong khi đó những người rất “tầm thường” lại muốn trổi trang trước mặt tất cả mọi người. Qua tấm gương Đức Yêsu, con người có thể nhận biết chính mình.

Yêu là nhân hạnh phúc

Con người ai mà không sợ chết. Có nhiều người, nhất là những bậc vua chúa công hầu muốn mình sống mãi nên mong ước có một liều thuốc trường sinh bất tử. Nhưng giả như ai đó được trường sinh, cái gì xảy ra cho người đó?

Chuyện kể có người tìm được liều thuốc trường sinh bất tử, nên sống hoài không chết. Vợ người đó cũng chết, con cái của người đó cũng chết, cháu chắt cũng chết theo thời gian, và lâu quá những con cháu xa không còn nhận biết ông cụ đó nữa, ông cụ như người xa lạ giữa những con cháu xa bao đời…. Và quá buồn ông cụ ao ước được chết như một người bình thường.

Tôi chứng kiến một người bệnh ung thư bị đau đớn như thế nào! Và ông ta mong được chết, vì sống “đau đớn” quá. Chết lại là điều may mắn vì ông được giải phóng.

Sống lâu không hẳn làm người ta hạnh phúc.

Cái chết thể xác diễn tả phần nào cái chết tinh thần: không còn tương quan với Thiên Chúa và con người nữa. Nếu ai sống thù ghét tất cả những người xung quanh, cuộc đời của họ như thế nào?

Sống cô lập, thù ghét những người quanh mình, là “tự sát”, là tự giết mình. Không thể hạnh phúc với những người như vậy. Họ sẽ chết dần chết mòn.

Yêu những người xung quanh, là đang sống, là đang tạo cho mình những điều kiện để có thể thấy đời đẹp và đáng sống.

Những người yêu người khác, cho dù họ có chết, thì vẫn được người khác nhớ đến và tiếc nuối. Yêu làm người ta sống cho dù đã chết; hơn nữa yêu làm người ta sống đời đời.

Điều tệ là không biết mình

Xem qủa biết cây. Cây tốt sinh trái tốt, người tốt làm những việc tốt lành. Những điều xấu là do người xấu mà ra. Người mù có thể dẫn đường cho người mù được chăng? Một người không biết mình, là người chỉ thấy lỗi của người khác, không thấy lỗi nơi mình, vậy làm sao người đó cải thiện được? Làm sao người đó khá hơn được? Những người kiêu ngạo không nhận lỗi của mình, những người không biết mình chỉ thấy lỗi nơi người khác hoặc không dám nhận lỗi của mình.

Hãy biết mình! Qua cách nhìn của người khác về mình, cũng phản ánh phần nào con người của mình. Có thể họ sai, nhưng thế nào cũng có điểm nào đó đúng. Không sẵn sàng nhận biết chính mình qua những phê bình, qua những lần lẩn tránh của người khác, qua sự sợ hãi hoặc chán nản của họ đối với mình, không sẵn sàng đón nhận lời góp ý của người khác, không thấy người ta nhận xét về mình đúng chút nào, e rằng đó là người “không biết mình”.

Hãy lấy cái “xà nhà” ra khỏi mắt mình, rồi hãy đòi lấy cái “dằm” ra khỏi mắt người khác. Không biết mình, đó là điều tệ hại rất lớn. Hãy xin Chúa cho mỗi người được ơn biết mình, để mình khiêm tốn nhận lỗi của mình, để mình sẵn sàng tha thứ cho người khác, để mình sửa đổi chính mình, để người khác có thể sống và muốn sống với mình, để mình sống an bình và hạnh phúc.

“Lạy Chúa, con là người tội lỗi.

Những gì người khác nhận định về con chắc là đúng, ít là chỉ một mình Chúa biết.

Xin cho con khiêm tốn chấp nhận chính mình, chấp nhận những gì người khác góp ý cho con.

Xin cho con nhận ra sự thật về chính con, để con sửa đổi và tiến bộ.

Xin cho con thành con người mới, dễ thương với mọi người, để người khác được hạnh phúc khi sống với con”.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Cái chết có đáng sợ không? Tại sao? Hành trang một người có thể mang theo là gì?

2. Bạn có kinh nghiệm về một người “không biết mình” không? Những người này có gì đặc biệt?

3. Bạn có kinh nghiệm về một người “không chấp nhận mình” không? Những người này có hạnh phúc không? Tại sao?

 

7. Cẩn thận về việc xét đoán--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Chủ đề: Cẩn thận về việc xét đoán. “Xem quả thì biết cây” (Lc 6, 44)

I. Dẫn Vào Thánh Lễ

Anh chị em thân mến

Bắt đầu mỗi Thánh lễ, chúng ta đều được kêu gọi hãy kiểm điểm lương tâm và nhận biết tội lỗi. Không phải nhận biết tội lỗi của người khác mà tội lỗi của chính mình ; nhận biết như thế rồi không phải để trách người khác mà để tự trách mình và nhận lãnh trách nhiệm của mình mà sửa đổi. Giờ đây mỗi người chúng ta hãy kiểm điểm lương tâm và thành tâm sám hối.

II. Gợi Ý Sám Hối

Chúng con thường làm ngơ trước khuyết điểm của mình, nhưng lại khắt khe với lỗi lầm của người khác.

Chúng con hay phê phán và lên án người khác.

Chúng con thường sống giả hình.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Hc 27,4-7)

Sách Huấn ca gom góp những giáo huấn giúp sống khôn ngoan. Trong trích đoạn hôm nay, giáo huấn nhắm đến lời nói:

Lời nói bộc lộ cái dở của một con người

Nghe người ta nói, ta mới biết rõ ai rởm ai hay.

Chớ vội khen hay chê khi chưa nghe người ta nói.

2. Đáp ca (Tv 91)

Người công chính thật được nhìn thấy qua cuộc sống tốt lành của mình: họ như cây dừa tươi tốt được trồng nơi Nhà Chúa, già cỗi rồi vẫn sinh hoa kết quả, tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn.

3. Tin Mừng (Lc 6,39-45)

Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy cho môn đệ mình 3 điều:

Dụ ngôn người hướng dẫn mù và cái xà trong mắt: Nếu người môn đệ Chúa mà mù quáng thì sẽ dẫn người khác đi vào sai lầm. Bởi thế, trước khi sửa lỗi người khác, mỗi người hãy tự sửa lỗi của mình.

Dụ ngôn Cây và Trái (cc 43-44): Chỉ có thể tránh nguy hiểm giả hình nếu như hành động bề ngoài của ta hợp với bên trong của ta. Đối với biệt phái và luật sĩ, một hành động được coi là tốt khi nó phù hợp với Luật. Chúa Giêsu sâu sắc hơn: một hành động là tốt, khi nó hợp với một tâm hồn tốt, một tâm hồn tốt sẽ sinh ra những hành động tốt.

Dụ ngôn kho tàng trong lòng (c 45): Chúa Giêsu so sánh cõi lòng con người như một kho tàng. Nó là nơi xuất phát những lời nói và việc làm hoặc tốt hoặc xấu. Từ kho tàng tốt thì sẽ phát ra những lời nói việc làm tốt. Bởi thế người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng lòng mình chứa đầy những điều tốt. Những điều tốt phải chứa trong kho tàng lòng mình là gì?

Đó là những giáo huấn của Chúa Giêsu.

4. Bài đọc II (1 Cr 15,54-58) (Chủ đề phụ)

Đây là đoạn cuối của chương 15 thư I Côrintô bàn về vấn đề kẻ chết sống lại. Trong đoạn này, Thánh Phaolô rút ra những hệ luận từ tín điều sống lại:

Cuối cùng Tử thần cũng phải bị đánh bại.

Tín hữu hãy kiên tâm bền chí, tích cực tham gia vào công việc của Chúa, bởi xác tín rằng trong Chúa thì mọi khó nhọc sẽ không trở nên vô ích.

IV. Gợi Ý Giảng

1. Bàn về lời nói

Ben Sira, tác giả sách Huấn Ca, cho rằng lời nói có giá trị bộc lộ sự thật: dựa vào lời nói của một người, ta có thể biết người ấy thực ra là dở hoặc hay. Hơn nữa, lời nói của một người còn giúp ta hiểu được lòng của người đó.

Nhưng Chúa Giêsu thì dạy khác: điều quan trọng không phải là nói, mà là làm. Người đã trách các kinh sư do thái rằng "Họ nói mà không làm" (Mt 23,3).

Không phải giáo huấn của Cựu Ước và Tân Ước nghịch nhau. "Lời nói" mà Ben Sira đề cập là lời thốt ra cách hồn nhiên, chân thành, chưa bị ngụy trang hay uốn nắn bởi những toan tính quanh co.

Ngày nay người ta phát triển những kỹ thuật để nghiên cứu và khảo sát lời nói: phân tích từng chữ từng câu để khám phá ý nghĩa thật. Các nhà phân tâm còn tìm cách cho bệnh nhân nói để chữa trị tâm bệnh của họ.

Lời khuyên của Ben Sira có lẽ không hợp nếu ta dùng nó để xét đoán lời nói của người khác, nhưng rất hữu ích nếu ta dùng để tự xét đoán bản thân:

Tôi thường nói những chuyện gì? Nói nhiều về một vấn đề chứng tỏ tôi quan tâm nhiều hay bị ám ảnh bởi vấn đề đó.

Tôi thường phê bình chỉ trích hay khích lệ, ủi an? Điều này giúp tôi biết tôi là người hẹp hòi hay rộng lượng ; là người gây chia rẻ xáo trộn hay là người kiến tạo bình an.

Khi nói về bản thân, giọng điệu của tôi thế nào? Điều này cho thấy tôi kiêu căng hay khiêm tốn.

2. Sửa mình trước khi sửa người

Chúa Giêsu chỉ rõ một thực tế rất thông thường: Thấy cái rác nhỏ xíu trong mắt người khác thì dễ hơn thấy cái xà to tướng nằm ngay trong mắt mình. Thấy khuyết điểm của người khác dễ hơn nhận ra khuyết điểm của mình.

Lý do là mình thường dễ dãi với bản thân và khắt khe với người khác. Đó là khuynh hướng tự nhiên. Nhưng đó là một căn bệnh: bệnh mù quáng, bệnh lệch lạc.

Ta có thể áp dụng giáo huấn của Chúa Giêsu vào hai trường hợp:

Áp dụng cho chính bản thân: hãy cẩn thận đừng phê phán người khác, vì chưa chắc gì mình đã tốt hơn ai.

Khi lãnh trách nhiệm lãnh đạo: vì trách nhiệm mà nhiều khi ta phải sửa lỗi người khác. Để cho lời nói của ta không là giả hình, để cho lời sửa dạy của ta có sức thuyết phục, ta hãy lo sửa đổi bản thân trước, nhờ đó ta trở thành một tấm gương, và tấm gương đó hỗ trợ khiến cho lời sửa đổi của ta đáng được người khác nghe theo.

3. Cây đời xanh tươi

Triệu Quát là con trai cha Triệu Xa - một danh tướng thời Chiến Quốc - thời trai trẻ từng đọc rất nhiều binh thư. Là một người khá thông minh, thích nói về quân sự, người khác không nói lại được, cha anh là Triệu Xa đôi khi cũng không tranh luận nổi với anh. Do đó, anh tỏ ra kiêu ngạo, tự cho mình là giỏi nhất thiên hạ.

Tuy nhiên Triệu Xa lại rất lo lắng cho con mình, ông cho rằng Triệu Quát chẳng qua chỉ nói phét. Ông còn nói: "Sau này nước Triệu không nên dùng nó, kẻo nó sẽ làm cho quân Triệu đại bại".

Quả thật, khi quân Tần sang xâm lược, vua Triệu quyết định cử Triệu Quát thay thế Liêm Pha. Lạn Tương Như đang bệnh cũng phản đối: "Triệu Quát chẳng qua chỉ là đọc được một số sách binh thư của cha mình, căn bản không biết vận dụng thế nào, không thể cử hắn làm tướng". Mẹ của Triệu Quát cũng đến gặp vua Triệu nói rằng con mình không thể làm đại tướng.

Nhưng vua Triệu không nghe, vẫn cử Triệu Quát ra tiền tuyến nghênh địch, hậu quả là 40 vạn quân Triệu chỉ trong chốc lát đã bị tiêu diệt hoàn toàn, bản thân Triệu Quát cũng tử trận thê thảm.

"Mù mà lại dẫn mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố" (Lc 6, 39). Làm nhà lãnh đạo hay người hướng dẫn phải có đủ tài đức; phải sáng suốt trong tư tưởng, khôn ngoan trong lời nói, và liêm chính trong việc làm, để khỏi dẫn đưa người khác cũng như chính mình vào con đường lầm lạc hay diệt vong. Những kẻ khoác lác, dối trá, giả hình có thể nhất thời lừa bịp được một số người, nhưng sớm muộn cũng sẽ bị bại lộ và sẽ phải chuốc lấy hậu quả khó lường: "Cây kim trong bọc lâu ngày cũng phải lòi ra".

Cha mẹ của Triệu Quát vì sống cùng anh ta, nên thấu hiểu lời nói và việc làm của con mình không thể đảm nhận việc lớn. Nhưng vua Triệu không quan tâm đến câu: "Lời nói phải đi đôi với việc làm", cứ cho rằng Triệu Quát là bậc kỳ tài trong thiên hạ và trao cho việc lớn. Kết quả không chỉ Triệu Quát bị hại mà còn liên quan đến tính mạng của 40 vạn quân. Mù mà dẫn mù thì việc sa xuống hố chỉ là sớm hay muộn mà thôi.

"Sao anh thấy cái rác trong mắt anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới" (Lc 6,41). Người ta thường rất hà tiện trong lời khen ngợi, nhưng lại quảng đại trong tiếng chê bai. Có thể nói một trong những tội con người dễ phạm nhất: đó là hay xét đoán, nghĩ xấu, nghĩ sai cho người khác.

Để có đôi mắt trong sáng, chúng ta không nên nhìn vào đôi mắt kẻ khác để thấy "cái rác" trong đó, hay "bới lông tìm vết" để xét đoán, chỉ trích họ, nhưng hãy nhìn vào chính đôi mắt tâm hồn mình, để thấy "cái đà" của kiêu căng tự mãn, của phô trương giả hình, để thanh lọc cho nên trong sáng. Vì người xưa có câu: "Việc người thì sáng, việc mình thì quáng", nên việc nhìn lại chính mình để tự kiểm thảo luôn là điều cần thiết của mỗi tín hữu Ki tô, nhất là những vị lãnh đạo, hướng dẫn các tâm hồn. Triết gia Chilon cũng cho chúng ta một luật sống bất hủ: "Hãy tự biết mình". Thánh Augúttinô thường cầu nguyện: "Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con.

Biết mình thường hèn yếu lỗi lầm để đừng bao giờ khắt khe lên án anh em.

Biết mình hay che đậy giả hình để cảm thông dung thứ cho kẻ khác.

Biết mình thích phô trương háo thắng để đừng phê phán nhạo báng một ai."

Một tác giả kia đã nhận định: Những kẻ may mắn thường là những người có tâm hồn lạc quan vui vẻ, họ có thói quen nhìn vào mặt tích cực của sự việc và vào điều tốt của kẻ khác. Trái lại, những kẻ bất hạnh thường có thái độ tiêu cực, thù hằn, họ thích nhìn vào điều tồi tệ nơi kẻ khác, họ rất ham chỉ trích ; và ưa "vạch lá tìm sâu".

Đúng như lời Chúa Giêsu đã nói trong đoạn Tin Mừng hôm nay: "Cây tốt thì sinh trái rốt, cây xấu thì sinh trái xấu" (Lc 6,43). Lời nói việc làm của người tín hữu Kitô chỉ có thể sinh hoa kết trái tốt tươi, nếu siêng năng suy niệm và thực hành lời Chúa. Đời sống của chúng ta chỉ có thể "phát xuất ra sự lành" nếu chúng ta được nuôi dưỡng bằng Mình Thánh Chúa vì lời Chúa là lời yêu thương và Mình Chúa là Bí tích tình yêu. Những ai sống trong vị kỷ, xét đoán, chỉ trích và thù hằn, kẻ ấy sẽ chết trong bóng tối gian ác của chính mình.

Lạy Chúa, xin đừng để chúng con khô héo trong thái độ chỉ trích, trong lối nhìn tiêu cực, trong cách nghĩ đen tối, nhưng xin cho cây đời chúng con được xanh tươi để sinh hoa kế trái của an bình, hạnh phúc và yêu thương. Amen. (Thiên Phúc)

4. Phải để ý đến lầm lỗi của chính mình

Một thầy dòng trẻ tuổi kia phạm một lỗi nặng. Lập tức các thầy dòng lớn tuổi họp lại để lên án anh ta. Tuy nhiên cần phải có mặt của Thầy Bề Trên thì phiên họp mới tiến hành được. Vì thế họ phái người đi mời Bề Trên: "Xin Bề trên đến mau, cộng đoàn đang chờ Thầy". Thầy Bề Trên đứng dậy, lấy một chiếc thúng có nhiều lỗ thủng. Thầy đổ đầy cát vào thúng, rồi mang nó sau lưng đi đến phòng họp. Dĩ nhiên cát rơi đầy dọc đường. Các thầy già hỏi Bề Trên làm việc đó vì ý gì thế. Và Thầy Bề trên trả lời: "Tội lỗi tôi rơi đầy sau lưng tôi. Tôi đi đến đâu cũng để lại một dãy tội phía sau. Chỉ có điều là tôi không thấy chúng. Thế mà hôm nay anh em lại bảo tôi ngồi tòa kết tội một người anh em của tôi sao!" Nghe thế, các thầy già xấu hổ và bỏ ý định lên án ông thầy trẻ.

Ai trong chúng ta cũng có thể trở thành những chuyên gia tìm ra tội người khác và phê phán họ. Nhưng những kẻ phê phán không phải là những người cải tạo thế giới. Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy lấy cái xà trong mắt mình ra trước, rồi mới tính đến chuyện lấy cái rác khỏi mắt anh em. Chúng ta phải lo dọn dẹp nhà mình cho ngăn nắp trước, rồi mới bảo người khác dọn dẹp nhà họ. Nếu không làm như thế thì chúng ta không phán đoán anh em vì quan tâm tới họ, mà chỉ vì thù ghét muốn làm hại họ. Ít có việc nào thoả mãn tính ích kỷ của mình cho bằng vạch tội người khác.

Một người dẫn đường chỉ có thể dẫn dắt người khác nếu bản thân người ấy thấy rõ con đường. Một người thầy dạy chỉ có thể chia xẻ cho người khác những kiến thức mà mình đã biết. Nếu không muốn làm một người hướng đạo mù, thì ta phải biết tự phê phán mình.

Chúng ta rất tích cực sửa lỗi người khác vì nghĩ rằng nếu mọi người khác trong cộng đoàn của mình mà biết được lỗi lầm và sửa chữa thì đời sống cộng đoàn sẽ tốt đẹp biết mấy. Nhưng ngược lại chúng ta rất khó chịu khi bị người khác vạch lỗi của chúng ta ra. Phải chăng đó là biểu hiện của tính ích kỷ?

Một người kia có thói quen hút thuốc và có nuôi một con vẹt. Một ngày kia anh thấy con vẹt cứ ho mãi, anh liền bỏ hút thuốc. Anh còn mời một bác sĩ thú y đến khám xem khói thuốc đã làm hại sức khoẻ con vẹt đến mức nào. Sau khi khám rất kỹ, bác sĩ cho biết con vẹt chẳng bị bệnh gì cả. Sở dĩ nó ho là vì nó bắt chước những cơn ho của chủ nó thôi. Khi đó, người ấy mới khám phá mình bị bệnh ho!

Người đạo đức giả – mà Chúa Giêsu gọi là giả hình – là người chỉ lo sửa lỗi kẻ khác. Người đạo đức thật là người biết tự sửa mình. (FM)

5. Cái xà trong con mắt

Không có gì làm ta mù quáng cho bằng để ý đến lỗi lầm của người khác.

Ngày xưa có một con tê giác luôn bị ám ảnh bởi ý tưởng mình là người hoàn hảo. Bởi thế nó tự cho mình có trách nhiệm sửa chữa những khuyết điểm của các con vật khác. Mà theo nó nghĩ, khuyết điểm nghiêm trọng nhất là có sừng trên đầu, cho nên tất cả những con vật có sừng đều không được ở yên với nó.

Thế nhưng nó đâu có biết rằng nó có một cái sừng mọc ngay trên cái mũi xấu xí của nó. Những con vật kia đều thấy rõ điều đó, nhưng chẳng con nào đủ can đảm nói cho nó biết.

Một hôm, con tê giác đang đi uống nước thì nghe tiếng một con chích choè đang hót trên cành cây. Nó bực mình thét to: "Im đi, cái con chim xấu xa. Mầy không thấy tao đang uống nước sao?". Con chích choè không chịu thua, cãi lại: "Bộ ông đẹp đẽ lắm sao? Ông thử soi mặt ông trên mặt nước rồi sẽ biết". Con tê giác nghĩ trong bụng: "Soi thì soi. Ai mà không biết ta là người hoàn hảo". Nhưng vừa nhìn xuống mặt nước, tê giác nhà ta bỗng giật mình vì khám phá một chiếc sừng quái dị nằm ngay trên mũi mình. Biết mình còn xấu xí hơn tất cả các con vật có sừng khác, nó xấu hổ quá: "Ta không thể nhìn mặt các con vật khác được. Ta tiều đời rồi". Kể từ hôm đó, khi đi, nó luôn cúi gằm mặt xuống đất. Nó cũng chẳng dám cho ai thấy mặt cả, cứ trốn trong các lùm cây.

Nhưng làm sao trốn tránh mãi được. Cuối cùng nó chẳng còn lựa chọn nào khác là chấp nhận sự thật. Khi đã có can đảm đối diện với chính mình, nó cũng dần dần can đảm đối diện với các con vật khác. Và các con vật kia rất ngạc nhiên khi gặp lại nó: một anh tê giác khác hẳn trước, thật hiền lành và dễ thương làm sao!

Con tê giác của chúng ta đã thay đổi nhờ biết chấp nhận những con vật khác, không phải theo hình ảnh mà nó muốn, nhưng đúng với hình ảnh thật của chúng, nghĩa là có sừng, có gai và có đủ thứ khuyết điểm khác. Nó cũng thay đổi nhờ biết chấp nhận bản thân mình, không xấu hổ vì chiếc sừng của mình nữa và cũng không lo các con vật kia sẽ nghĩ sao về nó nữa.

Chúa Giêsu bảo chúng ta đừng mất công tìm trái vả nơi bụi gai, hay tìm trái nho nơi bụi rậm. Nơi cây nào thì tìm trái của cây ấy. Bài học này có thể áp dụng cho việc đánh giá về người khác và về chính bản thân mình. (FM)

6. Sửa đổi tính tình

Một thầy tu kia có khuynh hướng hay nổi giận. Khuynh hướng này khiến thầy trở thành một gánh nặng không những cho người khác mà còn cho cả bản thân thầy. Thầy tin rằng thầy chẳng tiến bộ chút nào trên đường nhân đức. Thầy nói rằng nhưng người khác khiến thầy phải thụt lùi vì cứ làm phiền thầy và luôn quấy rầy khi thầy cầu nguyện.

Vì thế thầy quyết định rời tu viện để vào rừng ẩn tu. Thầy nghĩ rằng đó là cách khỏi phải bị người khác làm phiền và nhờ đó mà bỏ được tính nóng giận. Thế là thầy dựng một căn lều trong rừng, chẳng mang theo gì khác ngoài một bình nước. Nhưng trong một lần bất cẩn, thầy làm đổ bình nước, nên phải trở về tu viện để lấy bình nước khác. Tuy nhiên khi trở về lều, thầy lại bất cẩn làm đổ nước nữa. Lại chịu khó lần nữa. Nhưng sự việc lại tái diễn lần thứ ba. Khi ấy cơn giận bốc lên ngùn ngụt. Thầy dập chiếc bình vỡ tan tành, rồi ngồi bẹp xuống đất, hoàn toàn thất vọng về bản thân mình.

Khi cơn giận nguội xuống, thầy bắt đầu suy nghĩ và nhận ra rằng cái tính nóng giận của thầy không phải do nơi những thấy khác mà do chính bản thân mình. Tính xấu đó nằm ngay trong con người thầy, cho nên dù thầy đã vào tận trong rừng sâu, nó vẫn còn đi theo thầy.

Thế là thầy quyết định trở lại tu viện, xin lỗi các thầy khác và hứa sẽ cố gắng sửa tính nóng.

Chẳng khó gì nhận ra chính chúng ta trong câu chuyện trên. Khi gặp một vấn đề trục trặc, chúng ta hay đổ lỗi cho người khác. Thế nhưng nguyên do những trục trặc của chúng ta nằm ngay nơi bản thân chúng ta chứ không nơi người khác. Vậy chúng ta phải lo sửa mình trước, rồi mới có thể sống hòa thuận với người khác được. (FM)

7. Chuyện minh họa

Một nhà đại thần bí Ấn độ nói về chính mình: "Tôi là một nhà cách mạng khi còn trẻ, và tất cả những gì tôi cầu nguyện với Chúa là: 'Lạy Chúa, xin cho con quyền lực để cải tạo thế giới'.

Khi đến tuổi trung niên, tôi nhận ra rằng nửa cuộc đời qua đi mà không một tâm hồn nào được thay đổi. Tôi đổi lại lời cầu: 'Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải tất cả những người tiếp xúc với con.'

Bây giờ tôi đã già và gần kết thúc cuộc đời. tôi cảm thấy mình ngu dại biết bao. Lời câu nguyện của tôi bây giờ là: 'Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải chính con'. Nếu tôi xin điều này ngay từ đầu, tôi đã không lãng phí cuộc đời".

V. Lời Nguyện Cho Mọi Người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu mời gọi hết thảy mọi Kitô hữu hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời. Với ước muốn nên trọn lành, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin:

Hội thánh luôn cần những vị mục tử tài đức và thánh thiện để hướng dẫn Dân Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho Hội thánh nhiều vị mục tử khôn ngoan / sáng suốt và nhiệt tình trong đời sống mục vụ.

Ngày nay / tội ác diệt chủng vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa hoán cải con tim của người thời nay / để họ biết tránh xa tội ác / và nỗ lực làm nhiều việc thiện / nhờ đó nhân loại tránh được biết bao thảm họa đau lòng.

Trong cuộc sống thường ngày / có những người lúc nào cũng thích ngồi ghế thẩm phán / xét xử và kết án anh em mình cách vô trách nhiệm / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / luôn ý thức thân phận tội lỗi yếu đuối của mình / để đừng bao giờ lên án bất cứ ai.

Xét mình là một việc làm hết sức cần thiết trong đời sống đức tin của người Kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mỗi thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết trung thành xét mình mỗi ngày / để sửa chữa những thiếu sót lỗi lầm.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: Chính anh em là muối cho đời và là ánh sáng cho trần gian. Xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con luôn giữ vững phẩm chất của người Kitô hữu chân chính. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

 

8. Biết rõ tốt xấu – ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm

Câu truyện cổ tích kể: Một hôm con cọp thấy con trâu bị con người bắt kéo cầy. Cọp bảo trâu: Mày to lớn khỏe mạnh thế, sao để thằng người nhỏ bé bắt mày kéo cầy cực khổ vậy? Trâu đáp: nó nhỏ nhưng trí khôn nó lớn. Cọp hỏi người: Trí khôn mày đâu cho tao xem? Người nói: Trí khôn tao để ở nhà, mày muốn xem, tao sẽ về nhà lấy cho xem, nhưng phải để tao trói mày lại, kẻo mày ăn thịt trâu tao. Cọp vui vẻ để người trói. Trói xong, bác nông phu vác cầy đập cọp, vừa đập vừa nói: trí khôn tao đây, trí khôn tao đây. Câu truyện nói lên người hơn vật ở trí khôn, ở hiểu biết. Hiểu biết rất quan trọng, quan trọng nhất là biết nhận rõ tốt xấu, phải trái, đúng sai, hay dở, thật giả, thiện ác.

Tin Mừng nói: “mù dắt mù xuống hố”. Linh mục Thomas Carroll đã viết một cuốn sách được bác sĩ Chi Lan phiên dịch, nói lên những cực khổ của người mù rất tội nghiệp. Con mắt đã chết, làm chết luôn nhân cách, chết năng khiếu, chết nhận thức, chết hoạt động, chết giao tiếp với mọi người, mọi cảnh vật, cuộc đời thật tăm tối và như mất tất cả.

Mù mà Đức Giêsu nói ở đây, không phải là mù mắt, nhưng mù về trí khôn. Trí khôn mù về đạo đức, đạo lý, tâm linh, thiêng liêng. Những thứ mù này tai hại gấp bội mù thể xác. Mù mắt chỉ làm khổ người mắc bệnh và mấy người thân thuộc. Mù về trí thức khoa học cũng chỉ gây chậm tiến, lạc hậu. Còn mù đạo đức, đạo lý đã gây ra bao nhiêu tai họa khủng khiếp cho gia đình, quốc gia và cả thế giới. Một ông bố xì ke, nhiễm Sida lây lan cho vợ con và di truyền cho cả dòng giống, có khi cả làng nước. Một Hít-le đã chôn vùi cả thế giới trong chiến tranh tàn khốc.

Một giáo phái, một lý thuyết vô luân mù quáng lôi cuốn bao nhiêu thế hệ cuồng nhiệt xuống hố tiêu diệt lẫn nhau. Đó là những cây xấu, sinh trái xấu. Trái lại, một ông bố lành mạnh, sáng suốt, đạo đức để phúc cho con cháu đến bao nhiêu đời. Một Đức Khổng, một Đức Phật đã giáo hóa hàng ngàn thế hệ tốt lành. Đó là những cây tốt sinh trái tốt.

Điều cốt yếu của lời Chúa hôm nay là đưa ra những bài thuốc chữa bệnh mù tinh thần, làm thế nào để biết nhận rõ tốt xấu để nên tốt và sửa xấu.

Theo Tin Mừng, bài thuốc chữa bệnh mù tinh thần là:

Thứ nhất: Phải khiêm tốn để chữa bệnh kiêu ngạo. Trò tự phụ hơn thầy là thứ trò hỗn láo kiêu ngạo. Muốn học giỏi trò phải biết khiêm tốn. Người xưa khiêm tốn đến độ học được một chữ hay nửa chữ cũng đáng là thầy mình: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Cả khi gặp nhau đi đường cũng nhận ra người tốt là thầy mình, người xấu là bạn mình: “Ba người đồng hành, người tốt là thầy tôi, người xấu là bạn tôi”. Kinh Dịch là sách triết lý lớn nhất của Đông phương đã đặc biệt đề cao đức khiêm nhu của người quân tử: Khiêm là đạo trời, đạo đất và đạo người. Người quân tử khiêm nhu sẽ vượt mọi sông lớn, mọi đại họa: “Khiêm khiêm quân tử, dụng thiệp đại xuyên”. Việc làm khiêm tốn của quân tử sẽ nuôi được vạn dân: “Lao khiêm quân tử, vạn dân phục chi” (Quẻ khiêm). Quân tử là bậc thầy, bậc con trời đã phải khiêm tốn, thì trò là môn đệ cần phải hạ mình xuống hết mức.

Thứ hai là bài thuốc chữa bệnh chủ quan, ta thường thấy cái xấu của người khác nhưng lại mù quáng không thấy mình xấu: Không thấy cái xà trong mắt mình, nhưng lại thấy cái rác, cái bụi trong mắt người. Mù quáng là do tính tự ái: Yêu mình quá nên dù “trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa”, do ích kỷ lo kiếm lợi cho mình, nhận lỗi sẽ làm hại danh dự mình. Mù quáng còn do tính kiêu căng, tự cao tự đại che đậy trí khôn, không nhận ra tội mình. Có kẻ bao nhiêu năm không xưng tội, vợ giục đi xưng tội, chồng nói: Có tội đâu mà xưng. Trong khi Đức Piô X, một vị thánh Giáo Hoàng đầu tiên thế kỷ XX, ngày nào cũng xưng tội vì Ngài thấy rõ tí bụi bay vào mắt mình.

Thứ ba là bài thuốc xét mình: phải luôn luôn kiểm tra kết quả lời nói, việc làm của mình tốt hay xấu: “Cây tốt thì sinh trái tốt, cây xấu thì sinh ra trái xấu”. Nhà buôn phải tính sổ hằng ngày để biết mình lỗ hay lời. Lỗ phải tìm cách sửa lại, lời phải duy trì lâu dài. Mạng sống đời đời của chúng ta còn quý giá gấp triệu triệu lần lời lãi thế gian, như Đức Giêsu đã dậy: “Được lời lãi cả thế gian mất mạng sống mình nào được ích gì”. Chỉ lời lãi nhỏ thế gian, nhà buôn còn phải lo tính sổ hằng ngày, huống chi mạng sống đời đời của chúng ta lớn lao quan trọng vô cùng, sao chúng ta không lo xét mình, kiểm tra đời sống của mình: còn hay mất, lời hay lỗ.

Bài đọc I nhắc nhở chúng ta phải cố gắng kiên trì sàng lọc mình cho sạch thói xấu; phải nhiệt tâm đốt mình khỏi mọi bợn nhơ dỉ ghét như lò lửa nung luyện bình sứ, dầu phải gian nan cực khổ đến đâu cũng phải chiến thắng tử thần để nên người công chính bất tử. Lúc đó con người “xác thịt hay chết của ta mới mặc lấy sự trường sinh nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Bài II).

 

9. Cọng rơm và cái xà

Sống trên đời, chúng ta giống như một người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ phía trước mặt thì đựng những sai lỗi của người khác, còn cái giỏ phía sau lưng thì chất đầy những sai lỗi của bản thân.

Vì thế, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ những sau lỗi của người khác để rồi lên tiếng phê bình một cách gay gắt và chỉ trích một cách thậm tệ.

Trong khi đó, những sao lỗi của bản thân thì lại chẳng nhìn thấy. Và nếu có nhìn thấy chăng nữa, thì cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bênh vực và bào chữa:

- Vì thế này, bởi thế kia, tại thế nọ… nên mới ra nông nỗi. Còn nếu cứ như thế này, cứ như thế kia, cứ như thế nọ… thì đâu đến nỗi.

Chúng ta nên nhớ một câu danh ngôn của người Pháp:

- Avec les “si”, on peut mettre Paris dans une bouteille. Có nghĩa là với những chữ “nếu”, người ta có thể bỏ cả thành phố Paris vào trong một cái chai.

Sở dĩ như thế nhiều khi chỉ vì cái dã tâm, cái ác ý của chúng ta mà thôi. Thực vậy, rất nhiều lần chúng ta đã muốn vùi dập người khác xuống tận bùn đen, còn bản thân chúng ta thì lại muốn được ca tụng, được vượt trổi lên đến tận mây xanh.

Sự ghen ghét làm mờ cả đôi mắt chúng ta , như tục ngữ đã diễn tả:

- Việc người thì sáng, còn việc mình thì quáng.

- Chân mình những phẩm lê nhê,

Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.

Đáng lẽ ra chúng ta phải cư xử nghiêm khác với bản thân mình mà rộng rãi với người khác, thì chúng ta lại hành động trái ngược lại, cư xử nghiêm khắc với người khác mà rộng rãi với chính bản thân mình.

Đáng lẽ ra chúng ta phải lấy cái xà ra khỏi mắt chúng ta trước đã, rồi mới thấy mà lấy cái rơm, cái rác ra khỏi mắt anh em mình, thì trái lại, chúng ta chỉ thấy được cái rơm, cái rác trong mắt anh em, mà quên đi cái xà còn đang nằm ở trong mắt mình.

Hơn thế nữa, người xưa đã nói:

- Nhân vô thập toàn, có nghĩa là chẳng ai là người hoàn toàn, trái lại ai cùng có những khuyết điểm của mình.

Hay như Thánh vĩnh cũng đã bảo:

- Người công chính mỗi ngày còn sai lỗi tới bảy lần, huống nữa là chúng ta.

Thân phận con người thật là mỏng dòn và dễ vỡ như một chiếc bình sành, chúng ta có thể vấp ngã bất kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu. Sở dĩ chúng ta còn đứng vững và trung thành cho tới ngày hôm nay, tất cả đều do sự trợ giúp và nâng đỡ của tình thương và ơn sủng Chúa.

Vì thế, điều quan trọng đó là phải biết nhìn nhận những sai lỗi khuyết điểm của mình, để rồi cố gắng uốn nắn, nỗ lực sửa đổi, nhờ đó thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.

Đức Hồng y Verdier đã phát biểu như sau:

- Kể từ khi làm Tổng Giám mục Paris, tôi đã bị thiệt mất ba điều quí giá, một là không còn được đi lại tự do, vì công việc quá nhiều. Hai là không có bạn bè, vì ai cũng sợ làm mất thời giờ của tôi. Ba là không được nghe biết sự thật, vì kính nể nên ai cũng khen ngợi và tâng bốc tôi.

Vì thế, để biết rõ mình hơn, chúng ta cần phải khiêm nhường để hồi tâm xét mình, kiểm điểm lại cuộc sống xem trong mối liên hệ đối với Thiên Chúa, đối với tha nhân và đối với bản thân có gì là trục trặc, có gì là bất ổn.

Việc xét mình và kiểm điểm như thế giống như việc chúng ta soi mình vào trong gương, xem trên khuôn mặt chúng ta có nhọ nhem và mang vết bẩn hay không, nếu có thì chúng ta phải vội vã cọ rửa và lau chùi ngay.

Người xưa đã từng khuyên nhủ:

- Tri bỉ, tri kỷ, bách chiến bách thắng. Có nghĩa là biết mình, biết người, trăm trận trăm thắng.

Muốn biết mình, không gì hơn là phải xét mình, phải kiểm điểm bản thân và cuộc sống chúng ta.

Ngày xưa, thánh Augustinô vốn thường có thói quen cầu nguyện vời những lời lẽ như thế này:

- Domine, noverim te et noverim me. Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con. Biết Chúa để nhờ đó con sẽ yêu mến Chúa nhiều hơn. Biết con để nhờ đó sẽ uốn nắn sửa đổi nhưng sai lỗi khuyết điểm, hầu luôn sống đẹp lòng Chúa.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, nhân vô thập toàn, đã là người thì ai cũng có những sai lỗi và khuyết điểm của mình. Đứng trước những khuyết điểm của người khác, xin Chúa cho chúng con biết cảm thông và tha thứ, như Chúa đã từng cảm thông và tha thứ cho chúng con cũng như cho những kẻ tội lỗi trong Phúc âm. Còn đứng trước những sai lỗi của bản thân, xin Chúa giúp chúng con biết nhận lỗi, xin lỗi và nhất là sửa lỗi, để nhờ đó chúng con thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời và luôn làm đẹp lòng Chúa.

 

10. Hãy tự biết mình – Đừng xét đoán--Lm. Joshepus Quang Nguyễn

Ông bà ta dạy: “Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”. Lời dạy này hàm nghĩa: Cẩn trọng khi phát ngôn hay xét đoán người ta. Vì sao phải dạy như vậy? Theo quan niệm của ông bà, trong ứng xử hàng ngày, việc phát ngôn và xét đoán rất quan trọng, vì nó ảnh hưởng đến người khác. Nói, là một trong những kỹ năng phải học từ lúc vỡ lòng: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Phát ngôn không chỉ là việc truyền tin, còn là nghệ thuật giao tiếp: “Chim khôn kêu tiếng rảnh rang. Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”. Cho nên, trong đời sống chung, người ta rất tối kỵ việc buông lời xấu hay xét đoán cho người khác vì ông bà dạy: “Ngậm máu phun người trước dơ miệng mình”. Cho nên, khi nói hay xét đoán người khác, ta phải có trách nhiệm rõ ràng, trong sáng, tránh nói lửng lơ dẫn người ta đến tâm lý lo âu, hiểu sai lạc nên ông bà dạy: “Trách ai ăn nói lưng chừng. Để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo”. Có lẽ, đó là lý do vì sao Thiên Chúa dựng nên con người có hai con mắt để nhìn cho kỹ, hai cái tai để nghe cho rõ, hai lỗ mũi để cảm nhận cho đúng mà chỉ có một cái miệng để nói hay xét đoán cho đúng.

Cho nên, Chúa Giêsu hôm nay dạy: "Anh chị em đừng xét đoán, sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em”. Những lời Chúa nói hôm nay không đơn thuần chỉ là bài học có tính cách luân lý rằng Chúa Giêsu không chỉ khuyên chúng ta không nên xét đoán người khác. Ngài còn mời gọi chúng ta tự đặt mình vào mối tương quan với Thiên Chúa: Chỉ có Thiên Chúa, Đấng thấu suốt lòng con người mới có thể xét xử con người. Khi chỉ chúng ta nhìn nhận quyền xét xử của Thiên Chúa, chúng ta cũng sẽ nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. “Hãy lấy cái dằm ra khỏi mắt ngươi trước đã”, nghĩa là hãy nhận ra thân phận bất toàn của mình trước rồi mới xét đoán người ta.

Qủa thế, ngày xưa, nhà hiền triết Hy Lạp Socrate đã đề ra khẩu hiệu như bài học vỡ lòng cho các môn sinh của mình: “Hỡi người, hãy tự biết mình”. Chúa Giêsu của chúng ta cũng đề cao sự sám hối: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. “Hãy sám hối” trước tiên là nhận ra thân phận bất toàn đầy dẫy những lỗi lầm thiếu xót của mình, để rồi từ đó chúng ta sẽ biết sống cảm thông, kiên nhẫn, bao dung và tha thứ đối với người khác hơn. Sống như thế, chúng ta mới đạt được cùng đích của mình là trở nên giống Thiên Chúa, chứ không phải trở thành Thiên Chúa để gạt bỏ chính Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống và rồi xét đoán phạt anh chị em mình không thương tiếc.

Cho nên, Chúa Giêsu dạy hãy tự sửa mình nhiều hơn sửa người khác. Vâng, con người thường có tính tự nhiên quan tâm phô trường, khoe khoan tới hành động, thành công, việc làm của mình luôn luôn là tốt hơn người ta cho nên dễ xét nét hành động của người khác. Chúng ta hay tự cho mình là hoàn hảo hơn người khác trong khi đó mình còn thiếu sót sai lầm, cần phải sửa đổi trước đã rồi hẳn phê phán, xét đoán anh chị em khác. Cho nên, chúng ta dễ thấy những lầm lỗi của người khác, cho dù lầm lỗi ấy rất nhỏ. Còn những lầm lỗi của chính mình thì mình lại không thấy, cho dù rất lớn. Nếu một tập thể hay một gia đình mà trong đó ai cũng đều có tính chỉ nhìn thấy lỗi của người khác mà không thấy lỗi của chính mình thì đời sống chung sẽ rất khó chịu, dễ dàng trách móc, bực bội, hờn giận người khác. Thật là thật đau khổ khi phải sống chung với những người không có tự biết mình, không biết uốn lưỡi 7 lần trước khi nói và không nhìn lại mình trước khi xét đoán. Cho nên, Lời Chúa trong bài đọc 1, Sách Huấn Ca dạy: “Sàng rồi, trấu ở lại sàng, nói ra, cái dở rõ ràng thấy ngay. Có thử lửa mới biết bình thợ gốm, nghe lời miệng nói biết ngay lòng người. Chớ vội khen, khi người chưa lên tiếng: muốn biết người, phải nghe miệng nói năng”. Vì thế, Chúa Giêsu khẳng định: “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra”.

Vì vậy, việc nhìn thấy và sửa đổi chính bản thân mình thì dễ thực hiện vì điều ấy tùy thuộc vào chính mình, do mình làm chủ, nên hễ mình muốn sửa là sửa được. Còn sửa lỗi người khác thì khó hơn rất nhiều vì điều ấy không tùy thuộc vào mình, không do mình làm chủ. Vả lại, chính mình nên thánh trước đã rồi thì cảm hóa hay sửa chữa người khác sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Cho nên, ông bà ta bảo: “Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy mình đã, đừng làm theo kiểu chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”. Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, là những Kitô hữu chúng ta hãy hãy tự xét lỗi chính bản thân mình đã, chứ đừng vội xét lỗi người khác. Lạy Chúa, nhân vô thập toàn, đã là người thì ai cũng có những sai lỗi và khuyết điểm của mình. Đứng trước những khuyết điểm của người khác, xin Chúa cho chúng con biết cảm thông và tha thứ, như Chúa đã từng cảm thông và tha thứ cho chúng con cũng như cho những kẻ tội lỗi trong Phúc âm. Còn đứng trước những sai lỗi của bản thân, xin Chúa giúp chúng con biết nhận lỗi, xin lỗi và nhất là sửa lỗi, để nhờ đó chúng con thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời và luôn làm đẹp lòng Chúa. Amen.

 

11. Xét đoán và kết án theo Chúa Giêsu--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Con người chúng ta thường quá độ lượng với chính mình, nhưng lại khắt khe với người khác, thấy lỗi người khác mà không thấy lỗi của mình; phê phán người khác mà không tự phê phán mình; đó là thứ mù quáng và giả hình mà Chúa Giêsu nhiều lần cảnh báo.

Nhìn thấy cái rác trong mắt anh em dễ hơn là thấy cây đà trong mắt mình. Không phải ta không thấy vướng mắt, nhưng là vì ta quá quảng đại với bản thân, thậm trí viện dẫn muôn ngàn lý do để cho rằng cái đà trong mắt ta chẳng có là gì trước mặt mọi người. Tình trạng đó đưa ta đến một khả năng rất dễ thấy cái rác trong mắt anh em mình.

Việc Chúa dạy chúng ta phải làm là “trước hết phải lấy cây đà khỏi mắt mình đi” (Lc 6, 42). Chúa muốn thay đổi cái nhìn, nhận ra mình cần được sửa đổi trước đã, để nhờ thay đổi bản thân, ta không còn thấy và muốn nhặt rác trong mắt anh em mình nữa, rộng lượng hơn đối với anh em. Chúa nói: “Môn đệ không trọng hơn Thầy; nếu môn đệ được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi” (Lc 6, 40). Chúa là Thiên Chúa, Người đã không khắt khe với ta, sao ta lại vượt quá cách Chúa đối xử đại lượng với chúng ta.

Thật lỗi phạm biết bao khi ta xét nét anh em! Ta quên rằng chính ta lắm khi còn tệ hơn thế nữa. Chính bản thân ta vẫn còn đầy những thói hư tật xấu. Khi lên án, chỉ trích anh em, tôi làm như thể ta vô tội. Thực ra đó chỉ là cái đà lớn che đi con người của tôi mà thôi. Tất cả chúng ta được Thiên Chúa đối xử khoan hồng với giá máu châu báu của Chúa Kitô. Nhưng thư hỏi: Chúng ta đã được tha thứ điều gì? Hãy nhớ lại những điều tệ hại và xấu xa chính bản thân ta đã làm trong cuộc đời ta. Thế mà Thiên Chúa đã tha thứ tất cả.

Chuyện kể rằng: Có một vị vị ẩn sĩ kia, khi đến thăm một đan viện, thấy một tu sĩ làm điều lỗi, ngài có ý lên án. Khi trở về chòi tong sa mạc, gặp một thiên thần đứn chặn trước cửa và nói: “Ta không cho ngươi vào”. Ngài ngạc nhiên hỏi: “Tại sao thế thưa ngài?” Thiên thần đáp: “Thiên Chúa sai ta đến hỏi ngươi, xem ngươi đẩy vị tu sĩ ấy đi đâu?” Lập tức, vị ấy hối hận thưa: “Tôi đã phạm tội, xin tha cho tôi”. Thiên sứ bao: “Thiên Chúa tha cho ngươi, ngươi hãy giữ mình chớ bao giờ xét đoán ai, trước khi Thiên Chúa xét xử người ấy”.

Chắc chắn không ai muốn sống mà lúc nào cũng bị người khác để ý từng hành vi, cư chi. Vậy đừng làm cho người ta cái gì mình không ưa thích. Chúa nhắc nhớ chúng ta: “Hãy lấy cái đà trong mắt chúng ta trước, rồi lấy rác nơi anh em sau” (Lc 6, 42). Chúa sinh chúng ta ra mỗi người một vẻ để chúng ta đùm bọc nhau, sưa chữa nhau chứ không để hại nhau đâu. Hãy tha thứ và nhiệt tình phục vụ anh em, đừng xét đoánn, đừng lên án. Đó là điều Chúa nhắn nhủ chúng ta hôm nay.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết nghe lời Chúa dạy và đem ra thực hành trong đời sống. Amen.

 

12. Biết mình biết người--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc

Tin Mừng Lc 6: 39-45 "Không ai là một hòn đảo". Sống là sống với chứ không phải sống một mình. Quan hệ với tha nhân là điều không thể thiếu được trong đời sống xã hội. Do đó, cần phải hiểu biết người một cách sáng suốt thận trọng để có thể quan hệ tốt và ích lợi cho nhau, nhất là về mặt tinh thần.

Chuyện kể rằng: Có một người mù đi trong đêm tối, tay xách chiếc đèn, đầu đội cái bình sành. Một người đi đường trông thấy cho là anh mù nầy ngốc nghếch, liền cười nhạo và hỏi anh mù:

- "Này anh ngốc kia, đối với anh thì ban ngày cũng như ban đêm. Vậy anh cầm đèn để làm gì?"

Người mù ôn tồn đáp:

- "Đèn nầy không cần đối với tôi nhưng lại cần thiết đối với anh, để trong đêm tối anh không làm vỡ cái bình sành của tôi".

Người xưa đã nói: "Biết người, biết mình, trăm trận trăm thắng". Các nhà đạo đức cũng thường nói: "Biết mình là đầu mối khôn ngoan", là điều kiện trước tiên của mọi sự cải tiến. Nhưng làm sao để biết được người và làm sao để biết được mình?

Tác giả sách Huấn ca dùng nhiều hình ảnh so sánh để dạy chúng ta biết người như sau:

"Sàng rồi, trấu lại ở sàng.

Nói ra, cái dỡ rõ ràng thấy ngay.

Có thử lửa, mới biết bình thợ gốm.

Có chuyện trò, biết ai rởm ai hay.

Xem quả thì biết vườn cây.

Nghe lời miệng nói biết ngay lòng người.

Chớ vội khen, khi người chưa lên tiếng.

Muốn đo lòng, thì nghe miệng nói năng."

Những châm ngôn ấy dạy chúng ta muốn biết người thì hãy nghe người ấy nói đã. Đừng vội vàng phê phán, đánh giá, khen chê người nầy người khác trước khi đích thân tiếp xúc trao đổi với họ:

"Xem quả thì biết vườn cây.

Nghe lời miệng nói biết ngay lòng người".

Cây tốt thì sinh quả tốt, và cây xấu tất nhiên sẽ sinh quả xấu. Những lời gian dối không thể phát ra từ miệng của một vị thánh. Đúng hơn, đó là lời từ miệng của một người có tâm hồn gian ác: "Lòng có đầy thì miệng mới nói ra". Ở đây cũng cần lưu ý đến những người "Khẩu phật tâm xà" (Miệng nam mô, bụng một bồ dao găm) – những người giả hình, nói một đàng làm một nẻo. Nói bác ái, nhưng chỉ một chiều: người khác bác ái với mình, hay mình lợi dụng người khác. Vì thế, trái tốt cũng là những việc làm. Nói và làm phải đi đôi với nhau và cả hai là hoa trái cho biết phẩm chất tốt xấu thầm kín bên trong lòng người.

Có lẽ trong quan hệ với tha nhân, nhiều lần ta đã vội vàng phê phán, đánh giá, khen chê người nầy người khác trước khi đích thân tiếp xúc trao đổi với họ, rồi sau đó mới thấy mình đã không bé cái lầm. Sự thực không đúng như thế ! Hại cả cho mình, hại cả cho người.

Tuy nhiên, biết người thì dễ hơn là biết mình. Muốn biết mình, chúng ta cần phải thành thật và khiêm tốn qua việc tự kiểm, luyện tập và sửa chữa. Phải sáng suốt nhìn nhận những sai sót lỗi lầm của mình. Chúa dạy: Đừng có liều lĩnh lên mặt dạy đời khi mình chưa có một cái nhìn trong sáng về chính mình. Kẻo "mù mà dắt mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố".

Tại sao chúng ta lại khó biết mình? Người ta thường nói: "Việc người thì sáng, việc mình thì quáng". Thần thoại Hy Lạp ví con người như một kẻ mang hai cái túi: một cái trước ngực và một cái sau lưng. Cái túi chứa những tật xấu của mình thì đeo đằng sau, nên không thấy gì cả. Còn cái túi đựng những khuyết điểm của những kẻ khác thì đeo phía trước, nên nhìn thấy rõ ràng. Một trong những nguyên nhân làm chúng ta mù quáng đó là có một vật cản lớn ngay trước mắt: cái xà. Cái xà ấy làm cản trở tầm nhìn. Cái xà ấy làm không thấy rõ chính mình cũng như người khác. Cái xà ấy làm không nhìn thấy sự ghê tởm, nhớp nhúa, xấu xa nơi bản thân, để chỉ nhìn thấy vài khiếm khuyết nơi người khác. Đó là thái độ của người giả hình thực sự. Giả hình khi mạnh miệng chỉ trích người khác để người ta tưởng mình là hoàn thiện, trong khi thực chất chỉ là mồ mã tô vôi. Vì thế, Đức Giêsu mời gọi bạn hãy nhanh chóng "lấy cái xà trong mắt bạn ra trước đã rồi bạn sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong mắt anh em".

Nói như thế, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta rằng ai muốn tiến bộ cũng như muốn giúp anh em tiến bộ thì chính mình phải tự kiểm tra chính mình và sửa mình trước đã. Có sửa được mình thì mới sửa được người.

Như thế, để biết mình, trước hết cần phải liệu cho mình có được sự khôn ngoan sáng suốt chân thật, tức là sự hiểu biết về đường lối của Chúa, chân lý của Chúa và phải sống theo giáo lý của Ngài. Đó là cuộc sống của những người chọn Đức Giêsu làm Thầy, làm Người Hướng Đạo.

Anh chị em thân mến,

Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy trở nên "cây tốt" để sinh "trái tốt". Cây tốt là người lắng nghe Lời Chúa, người để ánh sáng Lời Chúa chiếu vào tâm hồn mình, để sinh ra hoa trái tốt bằng các việc bác ái cụ thể, và có thể giúp cho người khác sống điều mình đã sống. Người tốt có lấy "cái rác trong mắt anh em" cũng là vì tình yêu - chứ không vì hận thù, vì ghen tuông - Vì yêu, người tốt sẵn sàng đến với người khác, dùng Lời Chúa để hướng dẫn người khác thoát khỏi đường lầm lạc quay về con đường sống. Lời Chúa có thấm nhập vào thâm sâu cõi lòng thì tư tưởng, lời nói, hành động mới sinh hoa trái tốt. Mỗi người phải là một cây tốt và đem lại hoa trái tốt cho người khác: cha mẹ cho con cái, anh chị cho các em, thầy cho trò, bạn bè cho nhau, và như thế sẽ tạo nên một vườn cây tốt, một xã hội tốt.

"Không ai là một hòn đảo". Sống là sống với chứ không phải sống một mình. Quan hệ với tha nhân là điều không thể thiếu được trong đời sống xã hội. Do đó, cần phải hiểu biết người một cách sáng suốt thận trọng để có thể quan hệ tốt và ích lợi cho nhau, nhất là về mặt tinh thần.

Tuy nhiên, muốn biết người và biết mình một cách rõ ràng, chân thật, thẳng thắn thì lại phải có sự trong sáng của con mắt, của tâm hồn. Và nếu muốn giúp người lại cần phải có tinh thần phục vụ thật khiêm tốn, tế nhị và phải có đời sống gương mẫu có sức thuyết phục nữa.

Tất cả những điều cần thiết phải có trên đây, đều được thể hiện nơi Đức Kitô. Lời Ngài, việc làm của Ngài, thái độ của Ngài thật là ánh sáng dẫn dắt chúng ta, thật là gương mẫu cho chúng ta bắt chước. Ngài còn là niềm tin, hy vọng và sức mạnh giúp ta vượt thắng tất cả những khó khăn.

Thánh lễ được cử hành với Lời Chúa và với Mình Máu Thánh Chúa Giêsu là dịp cho chúng ta được Ngài soi sáng, là dịp cho chúng ta được chiêm ngưỡng gương sáng của Ngài, là dịp cho chúng ta được Ngài nâng đỡ.

Chúng ta nhận lấy ánh sáng của Lời Chúa, chúng ta cũng hãy sốt sắng lãnh nhận nguồn sinh lực dồi dào của Mình Chúa và tin tưởng cố gắng tiến lên cùng với anh em chúng ta. Có Chúa giúp đỡ, chúng ta sẽ đạt được kết quả thiêng liêng mỗi ngày một phong phú hơn.

 

13. Những bậc thầy mới--R. Gutzwiller

1. Tinh thần

Bản tính con người là muốn dạy bảo người khác. Có những người quyền thế luôn cho mình là người hữu lý, họ muốn chinh phục những ai nghĩ tưởng khác họ về với ý kiến của họ. Lối phê bình đó đưa họ tới chỗ xét đoán và kết án mọi chuyện, mọi người, dĩ nhiên là trừ một mình họ. Quả thực, những người ưa phê bình tỏ ra rất nhậy cảm trước những lời người ta ca thán về mình.

Trong nước Chúa, sự việc phải xảy ra khác hẳn: người ta không xét đoán, không trù rủa nhưng cho đi và tha thứ.

Điều này không có nghĩa là mọi phán đoán đều bị đình chỉ. Giữa sự đoán xét của cá nhân và sự xét đoán theo lương tâm chức nghiệp có một sự khác biệt về căn bản. Khi cha mẹ xét đoán con cái, người có bổn phận giáo dục đối với thanh thiếu niên, bề trên đối với bề dưới, quan toà với tội nhân, những người đó hoàn tất một bổn phận cần thiết và do Thiên Chúa muốn. Thái độ của họ tuỳ thuộc vào tinh thần hướng dẫn họ. Và đó phải là một tâm tình khiêm hạ: không coi mình là hay hơn, tốt hơn người khác, phải xét đoán họ theo những quy tắc của họ, và phải áp dụng cho mình những đòi buộc tương tự, nếu không muốn nói là áp dụng cho mình những đòi hỏi cao hơn…

Sự dèm pha chua chát, kiểu phê bình không chút xót thương, những cách kết án phi nhân đạo, chủ nghĩa giáo điều vênh vang tự đắc, tất cả những cái đó nghịch với tinh thần của Đức Kitô.

2. Động lực

Chúa Giêsu đưa ra ba động lực chính để điều chỉnh thái độ của chúng ta:

Thứ nhất và trọng nhất là mối liên hệ của ta với Thiên Chúa. Chúng ta đang đứng trước pháp đình và không thể tự bào chữa cho mình được. Do đó, hẳn ta sẽ nghĩ đến lòng nhân từ. Như vậy ta phải thông cảm với bất cứ con nợ nào, và phải có tâm hồn bao dung, không xét đoán theo những luật lệ khắc nghiệt. Nhưng hành động theo lòng trắc ẩn. Những quan hệ đứng đắn với Thiên Chúa sẽ điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người với nhau.

Thứ hai là mối quan hệ giữa người với người. Ai dạy dỗ người khác thì coi mình là người hướng đạo, trường hợp này điều chủ yếu là hướng dẫn viên phải sáng suốt để tránh tình trạng mù lại dẫn mù, và cả hai đều sa xuống hố.

Chỉ có hướng dẫn viên nào biết mình và xét đoán bản thân mình cách quân bình mới có thể hiểu biết và xét đoán tha nhân. Trong việc điều khiển chính xác, những điều kiện đầu tiên nhằm vào vị thủ lãnh. Mọi sự cải tổ đúng nghĩa đều phải khởi sự từ chính bản thân mình. Ta chỉ có thể phê bình người khác sau khi đã tự phê chính bản thân ta.

Thứ ba là phải có một caí nhìn thấu suốt chính bản thân mình. Bởi vì kẻ cho mình là tốt hơn tha nhân, theo lời Chúa Giêsu, là kẻ giả hình. Y tạo cho mình vẻ bề ngoài giả dối và hành động của y cũng như vậy. Y kêu rêu vì cọng rơm trong mắt anh em như thể mắt y không có gì cả, đang khi thực sự mắt y lại có cả một cái xà che khuất.

Như vậy, lý do Chúa Giêsu đưa ra đây hạ dần từ Thiên Chúa xuống tha nhân, và rồi đến chính mình. Ai tỏ ra lạnh nhạt với động lực đạo đức (quan hệ với Thiên Chúa). Thì ít là phải tỏ ra mẫn cảm với động lực xã hội… Nếu không, hẳn sẽ phải nhận mình là dị hợm vì khi đi khiển trách tha nhân và đề cao mình khi tìm cách cải thiện những kẻ tốt hơn mình và khi để ý đến lầm lỗi tha nhân, thì lại bị mọi người chế nhạo.

3. Lửa thử vàng

Muốn biết vị thày nào đáng cho ta tin cậy hay không, nên xem xét những việc ông ta làm, đây là tiêu chuẩn chắc chắn. Xem quả thì biết cây. Những hành vi lương hảo tượng trưng cho hoa trái chín thơm trên thân cây lành mạnh; còn hành động xấu xa là hoa trái ung thối do thân cây sâu bệnh mà ra.

Sự thiếu hoạt động nơi con người, có thể ví như một cây khô héo không còn sinh hoa kết quả: bởi vì không lẽ ta hái vả nơi bụi gai và vặt nho nơi cây dâu đất. Chẳng nên căn cứ vào lời lẽ bay bướm, hứa hẹn hay chương trình ồn ào phĩnh phờ, tình cảm kiểu cách biểu lộ hấp dẫn, hàng chuỗi sưả soạn nội bộ.

Bình tĩnh nhận xét hành vi và nếp sống là tiêu chuẩn định giá trị, là bằng chứng điều họ xác tín, và như thế ta biết có thể tin vào sự hướng dẫn của họ hay không. Nói cho cùng, hành động tinh thần chỉ là một, sự nhất trí này là mức độ sự thành toàn.

Bài giảng trên núi kết thúc bằng hình ảnh đặt quan trọng ở cách cư xử. Một ngôi nhà xây trên nền đá vững chãi, bão tố không làm chi được; còn căn nhà dựng trên bãi cát, sẽ sụp đổ một khi mưa giông, bão giật đổ tới. Người nào không chỉ nghe suông, nhưng mang ra thực hành, thì giống như người xây nhà trên đá; còn người nghe và hồ hởi đón nhận, nhưng tư cách không phù hợp với giáo lý là người xây nhà trên cát.

Chỉ có cách sống được tinh thần Chúa Kitô hướng dẫn mới là một Kitô giáo chân thực mà thôi.

 

14. Đạo đức giả

Suy Niệm

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một nguyên tắc để sửa lỗi anh em đó là: bản thân mình phải tốt mới có thể sửa dạy người khác.

Tiếng Việt của chúng ta dùng từ “sư phạm” để ám chỉ người dạy học. Sư là thầy, phạm là cái khuôn. Ý nói người làm thầy phải nên gương mẫu để học trò noi theo. Người thầy không chỉ là người truyền thụ một số kiến thức nhưng quan trọng còn là người phải nêu gương về cách sống, đạo đức.

Vì thế, kẻ muốn làm thầy người khác thì trước hết phải biết mình. Biết mình với những tính xấu, tật hư để tự sửa sai bản thân mình: “Tiên trách kỷ” sau đó mới có thể làm thầy, sửa dạy người khác “hậu trách nhân”. Nếu không biết mình để tu thân thì giống như Chúa Giêsu nói: “Mù dắt mù” thì kết quả là cả hai thầy lẫn trò sẽ sa xuống hố.

Đôi mắt của chúng ta thường dùng để nhìn người khác chứ ít khi nhìn mình. Do đó, chúng ta ít thấy lỗi lầm của mình, nhưng lại dễ dàng nhận ra những sai sót của tha nhân: “Sao anh lại có thể nói với người anh em: 'Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra', trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?”. Trong nhà thờ, người Công giáo hay đấm ngực mình: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng", nhưng khi ra ngoài nhà thờ thì đấm ngực người khác: “Lỗi tại nó…”.

Chúa Giêsu không ngại quở trách những người không “biết mình”, mà chỉ soi mói anh em giống như những Pharisêu, luật sĩ là những kẻ giả hình: “Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!”.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn chúng con phải là những con người biết nhìn nhận lỗi lầm của mình, biết tự sửa sai chính mình trước khi sửa sai người khác. Xin Chúa giúp chúng con biết nhận ra những thiếu xót, tội lỗi của bản thân và can đảm sửa đổi. Để nhờ cuộc đời thánh thiện, chúng con góp ý cho nhau trong tình huynh đệ chân thành nhằm làm lợi cho Nước Chúa. Amen.

 

15. Cái xà và cọng rác trong Tin Mừng--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy

Tin Mừng Lc 6: 39-45  Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một nguyên tắc để sửa lỗi anh em đó là bản thân mình phải tốt mới có thể sửa dạy người khác.

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một nguyên tắc để sửa lỗi anh em đó là bản thân mình phải tốt mới có thể sửa dạy người khác. Vì thế, kẻ muốn làm thầy người khác thì trước hết phải biết mình. Biết mình với những tật hư nết xấu để tự sửa đổi bản thân, sau đó mới có thể làm thầy, sửa dạy người khác. Nếu không biết mình để tu thân thì giống như Chúa Giêsu nói: “mù dắt mù” thì kết quả là cả hai thầy trò sẽ sa xuống hố.

Quả thật, đôi mắt của chúng ta thường dùng để nhìn người khác chứ ít khi nhìn vào mình, do đó, chúng ta ít thấy lỗi lầm của chúng ta, nhưng lại dễ dàng nhận ra những sai sót của tha nhân: “sao anh lại có thể nói với người anh em: "này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra", trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?

Đức Giêsu thật hài hước khi đưa ra hình ảnh cọng rác và cái xà. Người muốn nhấn mạnh đến mối tương quan để làm nổi bật sự lố bịch của thói xét đoán. Tính hài hước trong cách minh họa của Đức Giêsu làm cho thính giả cũng như độc giả là chúng ta phải nhìn ra tính nghiêm túc của bài học. Chủ nghĩa giữ luật hình thức có thể che mắt người ta để rồi họ chỉ lo “xăm soi” những lỗi lầm nhỏ nhặt của người khác, còn chính họ lại đui mù trước những lầm lỗi nghiêm trọng của mình. Vì hình ảnh minh họa nhắm đến những người hướng dẫn đui mù, nên trước tiên áp dụng cho giới lãnh đạo, nhưng Chúa Giêsu đã dùng từ “anh em”, nên bài học này cũng áp dụng cho cả chúng ta nữa.

Điểm nhấn ở đây không phải là chuyện lên án hay moi móc những lỗi lầm của anh em. Thực ra, mỗi người cần xem xét lại cuộc đời mình để phát hiện và loại bỏ những gì là bất toàn và lỗi tội. Biết xét mình và tự phê phán là mấu chốt cho những tương quan chân thật. Nói cách khác, tương quan của chúng ta thường là giả tạo. Chúng ta đeo mặt nạ để che giấu con người thật của mình. Chúng ta ngụy tạo những điều chúng ta không có. Chính vì thế nhiều khi chúng ta đã muốn vùi dập người khác xuống tận bùn đen, còn bản thân chúng ta thì lại muốn được ca tụng, được vượt trổi lên đến tận mây xanh.

Sự ghen ghét làm mờ đôi mắt chúng ta. Đáng lẽ ra chúng ta phải cư xử nghiêm khác với bản thân mà rộng rãi với người khác, thì chúng ta lại hành động trái ngược lại, cư xử nghiêm khắc với người khác mà rộng rãi với chính bản thân mình.

Đáng lẽ ra chúng ta phải lấy cái xà ra khỏi mắt chúng ta trước đã, rồi mới thấy mà lấy cọng rác ra khỏi mắt anh em mình, thì trái lại, chúng ta chỉ thấy cái rơm, cái rác trong mắt anh em, mà quên đi cái xà còn đang nằm ở trong con mắt của mình. Vì thế, điều quan trọng đó là phải biết nhìn nhận những sai lỗi khuyết điểm của mình, để rồi cố gắng uốn nắn, nỗ lực sửa đổi, nhờ đó thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.

Đức Hồng Y Verdier đã chia sẻ như sau: "kể từ khi làm Tổng Giám Mục Paris, tôi đã bị thiệt mất ba điều quí giá: một là không còn được đi lại tự do, vì công việc quá nhiều; hai là không có bạn bè, vì ai cũng sợ làm mất thời giờ của tôi; ba là không được nghe biết sự thật, vì kính nể nên ai cũng khen ngợi và tâng bốc tôi." Vì kính nể nên ai cũng khen ngợi và tâng bốc, nên Đức Hồng Y Verdier sợ không nghe được sự thật, nhất là sự thật về con người của mình. Trái lại, để thấy được con người thật của mình, nhiều khi chúng ta lại phải cần đến những người hay chỉ trích chống đối chúng ta như có có câu chuyện kể rằng:

Một ông vua kia được viên quan cận thần báo cho một tin khẩn như sau:

- Thưa ngài, kẻ đã luôn luôn phê bình chính sách của ngài nay bị bệnh nặng, sắp qua đời, từ nay chúng ta được yên thân rồi.

Nghe tin báo, thay vì vui mừng thì nhà vua lại ra lệnh cho viên quan đại thần như sau:

- Hãy mau đi tìm vị lương y giỏi nhất trong nước đến chữa trị cho bệnh nhân đó. Ta không muốn kẻ đó phải chết, hãy làm mọi cách để cứu sống ông ta.

Quan đại thần ngạc nhiên hỏi lại:

- Thưa ngài, người này là người luôn luôn phê bình đường lối cai trị của ngài. Nếu ông ta mà chết đi, thì có lợi cho ngài hơn, cớ sao ngài lại muốn như vậy, và ra lệnh phải tìm đủ mọi cách chữa trị cho người đó.

Nhà vua trả lời:

- Chính vì người đó dám lên tiếng phê bình ta, nên ta lại càng phải lo cứu sống người đó. Ta cần một con người can đảm như thế hơn là những người lúc nào cũng chỉ biết có tung hô vạn tuế.

Chúng ta thường có khuynh hướng thích được khen thưởng hơn là biết lắng nghe những lời thành thật giúp chúng ta thanh luyện những tiêu cực, nhất là khi chúng ta có chút ít quyền hành. Bởi thế, muốn biết rõ mình hơn, chúng ta lại càng cần phải có những kẻ can đảm, dám nói cho chúng ta biết sự thật, biết những điều lầm lỗi, để chúng ta sửa chữa và vươn lên.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn chúng con phải là những con người biết nhìn nhận lỗi lầm của mình, biết sửa đổi trước khi sửa sai người khác. Xin cho chúng con biết nhìn ra cái xà, một cái xà to lớn đang che mắt chúng con, làm chúng con không thấy được những những khiếm khuyết, lỗi lầm của chúng con. Xin Chúa cất khỏi con cái đà trong mắt con để con nhìn ra những cái hay cái tốt nơi anh chị em chúng con, nhờ đó, chúng con sẽ cùng nhau hăng say loan báo Tin Mừng, làm cho Nước Chúa được mau hiển trị trên thế gian này. Amen.

 

16. Tự biết để sửa mình--Lm. Inhaxio Trần Ngà

Ông Dale Carnegie, một nhà văn, nhà diễn thuyết và là nhà giáo dục đại tài, nổi tiếng khắp thế giới cho biết rằng: “Tôi đã phải mất 33 năm cuộc đời để khám phá được điều quan trọng này là trong 100 lần phạm lỗi, có đến 99 lần người ta tự xem mình như người vô tội, bất kể tội nặng đến đâu.”

Tự biết chính mình, thấy được những lầm lỗi của mình là điều rất khó, khó đến nỗi, “trong 100 lần phạm lỗi, có đến 99 lần người ta tự xem mình như người vô tội.”

Mà nếu không thấy được lầm lỗi thì làm sao sửa lỗi được, làm sao cải thiện cuộc sống được! Vậy là cứ chứng nào tật nấy!

Vì thế, cách đây hơn 2.500 năm, nhà hiền triết Socrate có để lại cho đời một lời dạy khôn ngoan được mọi người cho là lời khuyên vàng ngọc, tuyệt đối cần thiết cho đời sống con người. Đó là câu nói thời danh: "Hỡi người, hãy tự biết mình."

Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cũng dạy ta phải tự biết mình. Ngài nói: “Sao anh thấy cọng rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà (còn gọi là cái đà, tức cái xà ngang nằm vắt qua 2 đầu cột nhà) trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới?”

Vì không biết mình nên dù có cả “cái xà to lớn trong mắt mình”, nghĩa là tội ác tày đình của mình, người ta cũng không tự biết và cũng chẳng quan tâm.

Ngay cả vua Đa-vít, một vị vua tài ba lỗi lạc của người Do-thái, cũng không nhận ra lầm lỗi tày trời của mình.

Một buổi chiều nọ, vua Đavít dạo chơi trên sân thượng và thấy bà Bat-sê-ba, là vợ của U-ri-a đang tắm. Vua sai quân hầu đưa bà đến với vua. Ít lâu sau đó, bà Bat-sê-ba báo tin cho vua hay là bà đã có thai với nhà vua.

Vua Đa-vít tìm cách chạy tội bằng cách truyền lệnh cho chồng của Bát-sê-ba là U-ri-a từ mặt trận về và xúi U-ri-a về nhà ăn ở với vợ, để U-ri-a tưởng rằng chính anh ta là tác giả của bào thai trong dạ Bát-sê-ba. Nhưng việc không thành vì U-ri-a cứ nằm ngủ ở đền vua mà không chịu về nhà.

Thế là vua Đa-vít lập mưu giết chết U-ri-a ở ngoài mặt trận, rồi đón bà Bat-sê-va về cung, làm vợ mình ( II Sam 11 và 12).

Vua Đavít đã phạm một tội tày trời: giết U-ri-a để cướp của anh ta… mà vẫn ung dung như không có gì xảy ra.

Vì thế, Thiên Chúa sai tiên tri Na-tan đến cảnh tỉnh vua.

Nhà tiên tri trình với vua: “Trong thành kia, có một người giàu sang phú quý có cả đến hàng ngàn chiên dê và bò, trong khi đó, một người nghèo bên cạnh chỉ có một con chiên nhỏ mà ông ta rất yêu quý, coi như đứa con gái của ông. Thế rồi khi người giàu có khách, ông không bắt chiên mình đãi khách mà lại cho tôi tớ đi bắt con chiên độc nhất của người nghèo làm thịt.”

Nghe đến đây, vua Đavít bừng bừng nổi giận. Vua quát: “Đồ khốn kiếp! Nó đáng chết! Nó phải bị trừng phạt và phải bồi thường gấp bốn vì việc nó đã làm…” Tên khốn nạn đó ở đâu?

Tiên tri Na-tan thưa: “Tâu bệ hạ. Người ấy chính là vua. Nhà vua đã có nhiều thê thiếp lại còn nhẫn tâm giết chết Uria và cướp người vợ độc nhất của anh ta.”

Bấy giờ vua Đavít mới nhận ra tội mình và ăn năn khóc lóc thảm thiết.

Chua chát thay, vua Đa-vít thấy rõ tội nhỏ của người ta mà không thấy thứ tội tày trời của mình. Tội mình to như núi, mình không thấy; Tội người ta chỉ bằng viên sỏi, ta thấy rõ ràng.

Đúng như lời Chúa nói: Người ta thấy rõ “cọng rác trong con mắt của người khác, mà cái xà ngang trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới.”

Vì thế, Chúa Giê-su dạy: “Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã.” Nghĩa là hãy xét mình cho kỹ để thấy cho rõ lầm lỗi của mình mà chừa bỏ trước đi.

Muốn lấy “cái xà ra khỏi mắt mình”, tức là muốn sửa mình, muốn chừa tội thì trước hết phải biết nhận ra lầm lỗi của mình, đừng mù quáng như vua Đa-vít xưa.

Nếu chúng ta biết cơ thể mình bốc mùi khó chịu, chúng ta sẽ tắm rửa ngay. Nếu không nhận ra mùi hôi của mình, chúng ta cứ để cho mình hôi hám. Nếu chúng ta thấy mặt mình dơ bẩn, chúng ta sẽ lo rửa sạch ngay. Nếu không nhận ra vết nhơ trên khuôn mặt, chúng ta không cần lau mặt. Nếu chúng ta không nhận ra những thói hư tật xấu của mình, những điều xằng bậy của mình, những điều đê tiện của mình… thì làm sao chúng ta có thể sửa mình nên tốt được?

Tuy nhiên, nhận biết được tội của mình là điều rất khó.

Muốn biết mặt mình dơ hay sạch, chúng ta cần tấm gương soi. Muốn biết được lầm lỗi và những thói hư tật xấu của mình, chúng ta cần nhờ đến cha mẹ, thầy cô, cũng như những người chung quanh chỉ lỗi cho.

Ngoài ra, chúng ta cần xem xét mình hằng ngày để nhận ra lầm lỗi của mình mà sám hối.

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con thường xuyên nhìn vào nội tâm của mình, vào cách xử sự, vào cách ăn nết ở của mình để nhận ra những sai phạm lỗi lầm trong đó và quyết chí sửa đổi ăn năn. Nhờ đó, chúng con mới có thể cải thiện cuộc sống, để trở thành người có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức, xứng tầm người con Thiên Chúa.

 

17. Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 8 Thường Niên năm C mời gọi chúng ta phải thận trọng trong việc xét đoán người khác.

Hc 27: 4-7:

Trong đoạn trích sách Huấn Ca, hiền nhân Ben Xi-ra khuyên phải cẩn thận trong lời ăn tiếng nói.

1Cr 15: 54-58:

Trong đoạn thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô chia sẻ với độc giả của mình một sự hiểu biết mới liên quan đến cuộc phục sinh của người tín hữu.

Lc 6: 39-45:

Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su dạy rằng đừng vội xét đoán người khác nhưng hãy xét đoán chính mình.

BÀI ĐỌC I (Hc 27: 4-7)

Tác giả sách Huấn Ca là ông Ben Xi-ra, một hiền nhân Do thái. Ông là người học rộng biết nhiều, trung thành tuân giữ các giới luật, ca ngợi vinh quang của các bậc tổ tiên và hãnh diện về những đặc ân của dân Ít-ra-en, dân của Giao Ước và Minh Triết; nhưng đồng thời có tinh thần cởi mở với thế giới và không ngần ngại xét lại vài vấn đề trong những vấn đề lớn của niềm tin. Với tâm trí sâu sắc, khôn khéo, quân bình, hướng đến những giải pháp mực thước và cẩn trọng, ông là nhà luân lý lão luyện nhất trong tất cả các nhà luân lý Ít-ra-en. Đây là nhà cố vấn khôn ngoan cho mọi cảnh sống trong những thời kỳ yên hàn. Ông không giảng dạy tinh thần anh hùng, đó không là nhân đức thường ngày. Vui vì được phụng sự Thiên Chúa, ông hài lòng truyền đạt cho các môn sinh của ông những nguồn hạnh phúc của mình. Nhưng xin đừng ai coi thường giáo huấn như thế.

Trong đoạn trích dẫn ngắn của sách Huấn Ca hôm nay (Hc 27: 4-7), hiền nhân Ben Xi-ra khuyên phải cẩn thận trong lời nói: Lời nói bộc lộ bản chất của một người, vì thế qua lời nói, chúng ta có thể biết được người ấy như thế nào. Do đó, chớ vội xét đoán khi chưa nghe người ta nói. Câu tục ngữ Việt Nam dạy cách đối nhân xử thế đáng cho chúng ta ghi nhớ:

“Lời nói chẳng mất tiền mua,

lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.

BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 54-58)

Trước đây trong thư thứ nhất gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh nhân đã giải đáp một vấn nạn mà người tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca nêu ra về số phận của những người đã qua đời trước khi Chúa đến như thế nào: “Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giê-su đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giê-su, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giê-su” (1Tx 4: 13-14). Giờ đây trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân khai sáng một khía cạnh mới của sự phục sinh: “Tất cả chúng ta sẽ được biến đổi” (1Cr 15: 51). Không chỉ chúng ta được ở “với” Chúa, chúng ta cũng sẽ nên giống “như” Ngài. Chính nhờ quyền năng của Thiên Chúa mà chỉ trong nháy mắt hình thể của người sống và kẻ chết được biến đổi thành tình trạng vinh quang (15: 52-53).

1. Vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ được biến đổi như Đức Ki-tô (15: 54-57):

Để chứng minh rằng kẻ chết sống lại luôn luôn thuộc vào kế hoạch của Thiên Chúa, thánh nhân quy chiếu đến Kinh Thánh (15: 54-55): Thiên Chúa có quyền năng trên sự chết. Thánh Phao-lô sánh ví Tử Thần như con bò cọp khổng lồ chích nọc độc tội lỗi vào chúng ta khiến chúng ta chịu thống trị dưới quyền lực của nó. Sức mạnh của nọc độc này được minh họa bởi sự bất lực của Lề Luật trước tội lỗi (15: 56). Từ kinh nghiệm về sức mạnh khủng khiếp của Tử Thần, thánh Phao-lô vỡ tràn thành lời cầu nguyện tạ ơn (15: 57), vì chúng ta trải qua rồi cuộc chiến thắng của Đức Ki-tô Phục Sinh mà Thần Khí của Ngài đang thay hình đổi dạng cuộc sống của chúng ta bằng cách chinh phục tội lỗi trong chúng ta và cướp chúng ta ra khỏi nanh vuốt của Tử Thần.

2. Hiện nay, chúng ta phải sống như những người chiến thắng sự chết (15: 58):

Vì thế, thánh Phao-lô khuyên độc giả của ngài phải sống như thế nào để cuộc chiến thắng thành hiện thực. Lời dạy cốt yếu của thánh nhân chính là toàn bộ con người chúng ta, chứ không chỉ một yếu tố nào, được kêu mời hướng đến sự sống. Con người chúng ta phải được thay hình đổi dạng để càng ngày càng trở nên giống như Đức Ki-tô, do đó hiện nay chúng ta đang phải sống trong cái thân hư nát phải chết này, đừng phạm tội, và “càng ngày càng tích cực tham gia vào công việc của Chúa” (15: 58).

TIN MỪNG (Lc 6: 39-45)

Ngay từ đầu Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca lưu ý với chúng ta rằng chúng ta đang đứng trước dụ ngôn: “Đức Giê-su còn kể cho môn đệ dụ ngôn này”.  Với thể loại dụ ngôn, Đức Giê-su mời gọi mỗi người chúng ta tìm ý nghĩa của các câu chứ không dừng lại ở hình ảnh. Điều cốt yếu mà Ngài muốn truyền đạt chính là các môn đệ phải đối nhân xử thế như thế nào trong cuộc sống thường ngày. Chúng ta gặp lại đề tài xét đoán ở đây, trước đó từ chối xét đoán kẻ thù, giờ đây từ chối đoán xét “anh em”, tức là các thành viên trong cộng đoàn Giáo Hội.

1. Hãy tự xét đoán chính mình (6: 39-42):

Với dụ ngôn: “Người mù dắt người mù” (6: 39-40), Đức Giê-su mời gọi đừng xét đoán. Tuy nhiên, không xét đoán không có nghĩa là đặt tất cả trên cùng một bình diện như nhau. Có nhiều Ki-tô hữu còn lâu mới trưởng thành trong đời sống Ki-tô giáo (x. 1Cr 3: 1-3), vì thế, khôn ngoan nhất chính là trước khi xét đoán người khác, hãy tự xét đoán chính mình, vì người mù tối không thể tự phụ hướng dẫn người khác đến ánh sáng trọn vẹn của niềm tin.

Cuộc sống của người tín hữu là một chuẩn bị lâu dài để trở nên hoàn thiện (được dày công huấn luyện đầy đủ) để rồi người ấy sẽ nên giống như Thầy của mình là Đức Giê-su, Đấng hằng tâm niệm rằng mọi người đều có thể hoán cải, thay đổi đời sống. Ước gì mỗi người học sống theo mẫu gương tha thứ và yêu thương của Đức Giê-su đối với tội nhân, nhờ đó họ có khả năng hướng dẫn người khác, như Đức Giê-su đã nói với thánh Phê-rô: “Thầy sẽ cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22: 32). Đó cũng là thái độ của Đức Giê-su Phục Sinh khi Ngài gặp lại thánh Phê-rô bên bờ hồ Ti-bê-ri-a, lúc đó Ngài không một mảy may đá động gì đến ba lần thánh nhân đã chối Thầy, nhưng mời gọi thánh nhân hãy sống kinh nghiệm tha thứ và yêu thương của Thầy mà biết cư xử với đoàn chiên mà Ngài giao phó thánh nhân coi sóc (Ga 21: 15-17).

Với dụ ngôn: “Cái rác trong mắt người cái xà trong mắt ngươi” (6: 41-42), Đức Giê-su dạy rằng con người thường dễ thấy khuyết điểm của người khác mà không thấy khuyết điểm của mình, phê phán người khác mà không tự phê phán chính mình: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới?” (6: 41). Đó là thứ mù quáng và giả hình mà Đức Giê-su nhiều lần cảnh báo. Chỉ có một cuộc sống hoán cải liên tục, tự kiểm điểm và tự hoàn thiện bản thân mình, mới giải thoát chúng ta khỏi chứng mù lòa tâm linh và cho phép chúng ta sửa đổi được cách sống của người khác. Dụ ngôn “cái rác” và “cái xà” nhắc nhở chúng ta phải sống tốt trước đã rồi mới bảo người khác sống tốt được.

2. Hãy đổ tràn trong tâm trí giáo huấn của Đức Giê-su (6: 43-45):  

Với dụ ngôn: “Cây nào trái nấy” (6: 43-44), Đức Giê-su đưa ra cho chúng ta tiêu chuẩn để phân biệt người tốt kẻ xấu trong cuộc sống. Để phân biệt cây nào tốt cây nào xấu, chúng ta cần chăm chú nhìn vào trái mà cây trổ sinh, chứ không “hoa lá cành” của nó. Cũng vậy, để phân biệt người tốt kẻ xấu chúng ta nhìn vào những việc làm, chứ không những lời nói của người ấy. “Vì không thiếu những người ở đây trên cõi thế, khi tiếp cận với họ, hóa ra họ không là gì cả chỉ là hoa lá cành hào nhoáng bên ngoài. Chỉ là cành lá rậm rạp chứ không có gì thêm. Trong khi đó, nhiều tâm hồn đang chăm chú nhìn vào chúng ta hy vọng được no thỏa cơn đói của họ, cơn đói Thiên Chúa. Chúng ta đừng quên rằng chúng ta có tất cả mọi nguồn chúng ta cần. Chúng ta có đủ đạo lý và thiên ân, bất chấp cảnh đời bất hạnh của chúng ta” (Bl. J. Escriva, Friends of God, 51).

Với dụ ngôn: “Lòng đầy miệng mới nói ra” (6: 45), Đức Giê-su sánh ví cái tâm của con người với một kho tàng: cái tâm tốt thì xuất phát những lời nói và việc làm tốt, cái tâm xấu thì xuất phát những lời nói và việc làm xấu: “Thiện căn bởi tại lòng ta”. Bởi thế, người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng của lòng mình chứa đầy những điều tốt, tức là những giáo huấn của Đức Giê-su. Thánh Bê-na-đô giải thích: “Kho tàng của lòng mình cũng tương tự như cội rể của cái cây. Người nào có một kho tàng của đức nhẫn nại và đức ái hoàn hảo trong lòng mình, người ấy sinh ra hoa trái tuyệt vời; người nào yêu mến người thân cận của mình và có mọi phẩm chất khác mà Đức Giê-su dạy, người ấy yêu thương kẻ thù của mình, đối xử tốt kẻ ghét mình, chúc phúc cho người nguyền rủa mình, cầu nguyện cho kẻ vu khống mình, không phản ứng chống lại kẻ tấn công mình hay trấn lột mình; người ấy cho những ai xin mà không đòi hỏi những gì họ đã lấy cắp của mình, ước mong không xét đoán và kết án, sửa lỗi một cách kiên nhẫn và đầy lòng nhân ái những người lầm lạc. Nhưng người nào có kho tàng của sự gian ác trong lòng mình, người ấy đúng là hành xử ngược lại: hắn ghét bạn bè của mình, nói xấu người yêu thương mình và làm những điều khác nữa mà Chúa kết án” (In Lucae Evangelium expositio, II, 6).

 

18. Bài giảng là hoa quả của trái tim--‘Mở Ra Những Kho Tàng’--Charles E. Miller

Chúng ta sống trong thời đại kỳ diệu giống như Tivi, máy tính và những cuộc du hành không gian. Hàu như mỗi ngày, những điều kỳ diệu đều hé mở. Ai biết được những gì sẽ xảy ra kế đó? Và một trong những điều kỳ diệu lớn nhất mà chúng ta cảm nghiệm được mỗi ngày sống, cũng giống như là từ khi bình minh của nòi giống con người. Đó là sự kỳ diệu của ngôn ngữ. Quả thật nếu không có ngôn ngữ thì khó thấy được sự kỳ diệu của thời đại chúng ta có thể phát triển bởi vì sự cộng tác giữa những con người với nhau thì quá khó khăn, ngn làm cho mọi sự có thể ngay khi không thể.

Ngôn ngữ của con người không đơn giản được rút ra từ trên một ngàn năm qua do kinh nghiệm. Ngôn ngữ là một đặc ân của Thiên Chúa tuôn trào từ chân lý mà chúng ta đã được tạo dựng nên theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa. Điều đó nâng chúng ta lên như là hữu thể con người vượt trên những tạo vật khác và thật sự đã làm cho chúng ta nên giống Thiên Chúa. Từ đời đời chính Thiên Chúa đã là Ngôi Lời. Ngôi Lời mà chúng ta đã biết từ mạc khải Người Con thần linh của Cha. Ngài đã có từ nguyên thủy với Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Tất cả những lời nói của con người chúng ta thì không có vấn đề gì trong ngôn ngữ nhưng được thông dự vào trong Lời của Thiên Chúa. Đặc ân ngôn ngữ của Thiên Chúa thì quý giá biết bao mà chúng ta không được coi thường. Những lời đến từ chúng ta như là hoa quả đến từ cây. Trái xấu thì đến từ cây xấu và sách Khôn ngoan ngày hôm nay đã cảnh cáo chúng ta rằng, những lỗi của con người đã xuất hiện khi hắn nói. Nói một cách khác, trái tốt thì đến từ cây tốt. Như thế Chúa Giêsu đã nói với chúng ta rằng một người tốt sẽ sinh điều tốt, như từ điều tốt ở trong lòng của nó. Những từ ngữ của con người chúng ta sẽ là một diễn tả sự tốt lành của chúng ta.

Dĩ nhiên con người chúng ta được tự do sử dụng những đặc ân của Thiên Chúa theo điều đúng hoặc sai. Có lần chúng ta nói điều tốt nhưng lúc khác chúng ta lại nói điều xấu. Có lần chúng ta diễn tả sự kính trọng và tình yêu với những lời hay ý đẹp, nhưng lúc khác chúng ta lại tỏ ra mất kiên nhẫn và thù hận. Lúc này chúng ta nói sự thật, lúc khác chúng ta lại không nói sự thật.

Chúng ta có thể đồng ý rằng chúng ta không khinh thường những đặc ân của Thiên Chúa, cố gắng để sửa sai những từ ngữ của mình, nhưng sự thay đổi trái tim của chúng ta thì giống như cố gắng sinh sản ra những trái tốt từ cây xấu vậy. Chúng ta cần thay đổi bên trong của chúng ta. Đó là lý do vì sao mà Thiên Chúa muốn khi Ngài nói: “Mỗi người hãy nói từ sự phong nhiêu của lòng mình”.

Sự phong nhiêu nơi tâm hồn của chúng ta là gì? Với sự tốt lành nào mà tâm hồn đó đã được tràn đầy? Không có điều gì hơn sự tốt lành phong phú của Thiên Chúa. Vào mỗi ngày Chúa Nhật nơi Thánh Lễ chúng ta đã nghe những lời, những lời rất quan trọng, những lời phản ảnh Ngôi Lời lớn lao của Thiên Chúa. Chúng ta nghe những lời trong Thánh Kinh. Đức Kitô Ngôi Lời của Thiên Chúa đã nói với chúng ta khi những lời Thánh Kinh được tuyên bố trong phụng vụ. Từ những lời thánh này, chúng ta học được về Thiên Chúa và học được về chúng ta. Thí dụ trong bài đọc thứ hai của Thánh Phaolô ngày hôm nay đã nói với chúng ta về giá trị lớn lao như là con cái của Thiên Chúa. Chúng ta rất giá trị trong đôi mắt của Thiên Chúa, cái chết thì không phải là tận cùng của chúng ta, sự chết đã được Đức Kitô chế ngự, Thánh Phaolô đã tuyên bố chân lý này để cho tâm hồn của chúng ta được tràn đầy sự tốt lành của Thiên Chúa, nhưng ngài cũng trình bày cho chúng ta là lời nói của chúng ta phải tuôn trào một sự hiểu biết về sự nhân lành đó. Ngài cũng nói thêm sự tuôn trào đó sẽ có giá trị phát xuất từ tâm hồn của chúng ta: “Hãy cảm tạ Thiên Chúa, Đấng đã ban cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.

Nếu tâm hồn của chúng ta được tràn đầy sự nhân lành của Thiên Chúa và những lời của chúng ta được tràn đầy sự nhân lành. Chúng ta sẽ không dùng những lời xấu nhưng là những lời tốt. Chúng ta sẽ làm tốt nếu mọi người nghe chúng ta nói có thể cảm nhận rằng chúng ta nói như Đức Giêsu Kitô đã nói xưa kia trên mặt đất này. Tiếp đó, đối với lời nói của chúng ta, chúng ta có thể đáp cách đúng đắn rằng: “Hãy cảm tạ Thiên Chúa”.

 

19. Sống những gì Chúa muốn

Những lời trong Bài Tin Mừng hôm nay dường như Chúa muốn nhắm tới các thầy dạy trong đạo Do Thái thời Ngài, tuy nhiên chúng ta cũng có thể tìm ra được một vài áp dụng cho chính chúng ta.

1. Chúa muốn nói rằng muốn hướng đẫn, muốn dạy dỗ người khác thì trước hết phải "biết" điều mình hướng dẫn, mình dạy trước. Vì "mù dắt mù, thì cả hai sẽ lăn cù xuống hố" (Lc 6,39). Mình có biết, có sáng mắt thì mới thấy đường mà hướng dẫn anh em mình.

Bởi thế, điều kiện để được trở thành người hướng dẫn kẻ khác là phải biết mình. Và cách để giúp mình biết mình trước, tốt nhất là phải học và biết lắng nghe, nhất là lắng nghe những người không ưa mình nói về mình.

Một ông vua kia được viên quan cận thần báo cho một tin khẩn như sau:

- Thưa ngài, kẻ đã luôn luôn phê bình chính sách của ngài nay bị bịnh nặng, sắp qua đời, từ nay chúng ta sẽ được yên thân hơn.

Nghe tin báo, thay vì vui mừng thì nhà vua lại ra lệnh cho viên quan đại thần như sau:

- Hãy mau đi tìm vị lương y giỏi nhất nước đến chữa trị cho người bệnh đó. Ta không muốn kẻ đó phải chết, hãy làm mọi cách để cứu sống kẻ đó.

Quan đại thần ngạc nhiên hỏi lại:

- Thưa ngài, người này là người luôn luôn phê bình đường lối cai trị của ngài. Nếu ông ta mà chết đi, thì có lợi cho ngài hơn, cớ sao ngài lại muốn như vậy, và ra lệnh phải tìm đủ mọi cách chữa trị cho người đó sống.

Nhà vua trả lời:

- Chính vì người đó dám lên tiếng phê bình ta, nên ta lại càng phải lo cứu sống người đó. Ta cần một con người can đảm như vậy hơn là những người lúc nào cũng chỉ biết có tung hô vạn tuế.

Chúng ta thường có khuynh hướng thích được khen thưởng hơn là biết lắng nghe những lời thành thật giúp chúng ta thanh luyện khỏi những điều tiêu cực, nhất là khi chúng ta có chút ít quyền hành. Bởi thế, muốn biết rõ về mình nhiều hơn, chúng ta lại càng cần phải có những kẻ can đảm, dám nói cho chúng ta biết những sự thật, điều lầm lỗi của chúng ta, để biết sửa chữa và giúp mình vươn lên.

2. Tiếp đến, Chúa bảo muốn cho lời dạy của mình có sức quyến rũ và thuyết phục được người khác thì phải sống những điều mình dạy trước đã. "Sao anh lại có thể nói với người anh em: 'Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra', trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?- Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!"(Lc 6,42)

Trong Tin Mừng chúng ta thấy, khi Chúa muốn dạy điều gì, thì Chúa đã làm trước.

Các việc ở đời cũng vậy.

Cha mẹ muốn con cái siêng năng đạo đức, thì chính cha mẹ hãy siêng năng đạo đức trước. "Chân mình thì lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người" thì không được.

Nói tới đây tôi nhớ tới một câu truyện có thật. Truyện thế này:

Năm 16 tuổi, Albert Einstein thường thích làm bạn với những đứa trẻ chỉ thích ham chơi chứ không thích học hành. Vì thế mà việc học hành của cậu ngày càng kém, thậm chí nhiều lần còn phải thi lại.

Một buổi sáng chủ nhật nọ, Einstein chuẩn bị cần câu để đi câu với bọn trẻ đó thì bị bố ngăn lại và nói:

- Con trai, suốt ngày bố thấy con chỉ biết ham chơi, lại còn vài môn phải thi lại. Bố mẹ rất lo cho tương lai của con.

Einstein thản nhiên đáp lại bố:

- Chẳng có gì đáng lo cả bố ạ. Bố thấy đấy, nhiều đứa cũng phải thi lại, đâu phải vì chúng suốt ngày đi chơi?

Bố ân cần nói với Einstein:

- Con trai, con không được nghĩ như thế. Bố kể cho con nghe một câu chuyện ngụ ngôn nhé. Có hai chú mèo nhỏ chơi đùa cạnh ống khói. Vì không cẩn thận nên cả hai đều rơi xuống ống khói, khó khăn lắm chúng mới bò ra ngoài được. Hai chú mèo nhìn nhau, một chú mèo mặt nhem nhuốc bụi khói, còn chú mèo kia thì rất sạch sẽ. Chú mèo sạch sẽ nhìn chú mèo mặt dính đầy khói, tưởng rằng mặt mình cũng bẩn nên vội vàng chạy đi rửa mặt. Còn chú mèo mặt dínhđầy bụi kia tưởng mặt mình sạch nên chạy đến chỗ khác chơi. Những con vật khác nhìn thấy nó đều bỏ chạy tán loạn, tưởng rằng nhìn thấy yêu quái. Con trai, chúng ta không nên coi người khác là chiếc gương của mình, chỉ có mình mới là chiếc gương cho chính mình thôi.

Sau khi nghe bố kể câu chuyện, Einstein xấu hổ đặt cần câu xuống, quay về phòng học.

Vâng! Muốn cho lời nói có uy, có nghĩa là có sức thuyết phục thì ta phải sống trước.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp cho mỗi người biết sống những gì Chúa muốn, để chúng ta có thể nên những chứng nhân cho Ngài giữa cuộc sống hôm nay. Amen.

 

20. Ánh sáng thế gian

Ngày 11/09/2003 Hoa Kỳ và cả thế giới đã tưởng niệm các nạn nhân của cuộc khủng bố ngày 11/09/2001. Thế giới không những tưởng nhớ những người đã chết, thế giới còn nhắc nhở để ý thức về những sức mạnh mù quáng của sự dữ đang lôi kéo con người vào vòng tội ác. Những kẻ gây ra đau thương tang tóc cho người đồng loại mà vẫn nghĩ rằng mình đang làm điều tốt. Nhiều người đang bị lôi kéo vào vòng tội ác mà không hay biết.

Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian. Ngài đến để cứu thoát con người khỏi tăm tối của sự dữ. Ngài nói với loài người rằng họ đang bị sức mạnh mù quáng của sự dữ lôi kéo và trói buộc. Ngài đến để mang lại cho chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta chấp nhận thân phận tội lỗi của mình chúng ta mới thấy được sự cần thiết để được giải thoát.

Chúa Giêsu đã khẳng định: "Chỉ có sự thật mới giải thoát các ngươi". Sự thật ở đây trước hết là sự thật về thân phận yếu hèn tội lỗi của chúng ta. Thật thế, chỉ khi nào biết mình đang đi trong bóng tối chúng ta mới cảm thấy cần có ánh sáng. Trái lại bao lâu vẫn không nhận ra thân phận mù lòa của mình, bấy lâu chúng ta sẽ chẳng bao giờ cảm thấy cần có ánh sáng.

Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh của người mù dắt người mù để nói lên tình trạng khốn khổ của con người. Ðể có thể là người dẫn đường, chúng ta phải là người thấy đường đã. Thấy đường ở đây không hẳn là nắm bắt hay chiếm hữu chân lý. Thấy đường thiết yếu là thấy được thân phận tội lỗi của mình và từ đó có một thái độ khiêm tốn hơn trong quan hệ với người khác. Chính vì thế mà Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy lấy cái xà trong con mắt mình trước đã rồi mới thấy rõ hầu lấy cái rác trong con mắt người anh em.

Tựu trung, chúng ta được mời gọi để sám hối và sống khiêm tốn hơn. Thế giới đang bị những sức mạnh mù quáng của sự dữ lôi kéo, xã hội trong đó chúng ta đang sống cũng đang bị nhận chìm trong tăm tối của sự dữ. Sự dữ đúc chế những danh từ hoa mỹ, sự dữ được cơ chế hóa, sự dữ được luật pháp che chở. Sống trong bóng tối con người chẳng còn phân biệt được ánh sáng và bóng tối. Ði trong tăm tối của sự dữ con người chẳng còn biết thế nào là thiện thế nào là ác, và cuối cùng ý thức về tội lỗi cũng bị đánh mất.

Lời đầu tiên của Chúa Giêsu khi khởi đầu sứ vụ công khai là kêu gọi con người sám hối và tin vào Tin Mừng. Có nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình con người mới có thể nhận ra được sự cần thiết của ơn cứu rỗi. Ðây chính là điều Giáo Hội nhắc nhở con cái mình mỗi ngày. Ở đầu mỗi thánh lễ chúng ta đấm ngực và xưng thú tội lỗi của mình, làm như thế chúng ta không những nói lên thân phận tội lỗi của mình mà còn mời gọi mọi người ý thức về những sức mạnh của sự dữ đang hoành hành trên thế giới. Sám hối là tâm tình cơ bản nhất của người tín hữu Kitô.

Nguyện xin Chúa cho đôi mắt tâm hồn chúng ta luôn được sáng suốt để nhìn thẳng vào nội tâm sâu kín của chúng ta, hầu nhận ra những bất toàn sai sót của mình. Ý thức về tội lỗi của mình chúng ta mới nhận ra được những sức mạnh của sự dữ đang bủa vây chung quanh chúng ta, và, với sự trợ giúp của ơn Chúa chúng ta mới đủ sức để chiến đấu chống lại sự dữ.

 

21. Cái rác – cái xà--Lm. Vinc. Đỗ Minh Thăng

Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng một hôm, con tê giác đang đi uống nước thì nghe tiếng một con chích choè đang hót trên cành cây. Nó bực mình thét to: "Im đi, cái con chim xấu xa. Mầy không thấy tao đang uống nước sao?"

Con chích choè không chịu thua, cãi lại: "Bộ ông đẹp đẽ lắm sao? Ông thử soi mặt ông trên mặt nước rồi sẽ biết".

Con tê giác nghĩ trong bụng: "Soi thì soi. Ai mà không biết ta là người hoàn hảo". Nhưng vừa nhìn xuống mặt nước, tê giác nhà ta bỗng giật mình vì khám phá một chiếc sừng quái dị nằm ngay trên mũi mình. Biết mình còn xấu xí hơn tất cả các con vật có sừng khác, nó xấu hổ quá.

Anh chị em thân mến,

Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường thấy cái rác trong mắt người khác mà không thấy cái xà trong mắt mình; thấy lỗi nho nhỏ của người khác mà không thấy lỗi lầm to lớn nơi bản thân mình; phê phán người khác mà không tự phê phán mình; đó là thứ mù quáng và giả hình mà Chúa Giêsu nhiều lần cảnh cáo bởi vì ai cũng dễ mắc phải.

Chúa Giêsu không cấm ta góp ý, sửa lỗi cho người khác, nhưng Ngài dặn ta trước hết hãy lấy xà khỏi mắt mình, để thấy rõ mà lấy rác nơi mắt anh em. Khi chúng ta lấy cái xà ra khỏi mắt mình rồi thì chúng ta sẽ có cái nhìn bao dung hơn với tha nhân.

Cái nhìn của đôi mắt không có cái xà sẽ không còn là cái nhìn của phê phán, chỉ trích, nhưng là cái nhìn của Chúa Giêsu, một cái nhìn đầy yêu thương, tha thứ, mang lại cho kẻ được nhìn niềm tin yêu, hy vọng.

Lạy Chúa, "Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con". Biết Chúa để thấy lòng quảng đại yêu thương vô bờ của Chúa; biết con để ý thức về sự yếu đuối, bất toàn của con, nhờ đó con sẽ dễ dàng rộng lượng với người khác như Chúa đã đối xử cách đại lượng với con. Amen.

 

22. Mù không thể dắt mù--Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP

Trong cuộc sống, vẫn còn đó rất nhiều người dốt, nhưng lại được mua chuộc bằng tiền, bằng quyền để lãnh đạo và dạy dỗ người khác. Tệ hơn nữa là những kẻ đạo đức giả tạo lại oang oang nói về lòng nhân từ hay tha thứ một cách “ngọt như đường mía lau”!

Không những thế, những kẻ trá hình này lại còn lôi kéo nhiều người khác đi vào con đường mù quáng, sai trái của mình...

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu răn dạy các môn đệ và những ai bước theo Ngài trong vai trò chứng nhân, phải khôn ngoan, sáng suốt, thông hiểu về Giáo Lý và có đời sống gương mẫu, có đủ tư cách phù hợp với vai trò của mình và nhất là phải giữ vững bản chất của một người thuộc về Chúa để nên giống Chúa.

Nếu người môn đệ mà mù mờ về Giáo Lý, hiểu sai ý Thiên Chúa và sống một cuộc đời phản chứng, gương mù và biến chất, thì sẽ gây nên những hậu quả khôn lường. Bóng tối thêm vào bóng tối vẫn là bóng tối chứ không tạo ra được tia sáng nào. Mù mà dắt mù ắt sẽ rơi xuống hố.

Như vậy, muốn thành công, người môn đệ phải có sự hài hòa giữa đời sống nội tâm và hành động. Nói khác đi, cần phải làm gương trước khi khuyên bảo người khác... để lời nói và hành động của mình trở nên “nhất ngôn, nhất hành”.

Lạy Chúa Giêsu, xin chiếu giãi Ánh Sáng là Chân Lý của Chúa vào trong tâm hồn chúng con. Xin cũng cho chúng con luôn thuộc về Ánh Sáng và phải có trách nhiệm chiếu giãi Ánh Sáng đó cho mọi người. Amen.

 

23. Hãy tự biết mình

"Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán." (Lc 6,32)

Chỉ là thụ tạo mà muốn làm Thượng đế, đó là ảo tưởng muôn đời của con người. Ngay từ đầu lịch sử nhân loại, Ông Bà nguyên tổ của loài người đã trải qua cơn cám dỗ ấy. Ma quỉ nói với Ông Bà: Các ngươi hãy ăn trái cấm, các ngươi sẽ trở thành Thiên Chúa, nghĩa là các ngươi hãy chối bỏ Thiên Chúa và tự tôn mình thành Thiên Chúa để sống mà không cần có Thiên Chúa. Ðó là cơn cám dỗ triền miên của con người: sống không cần Thiên Chúa, loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, để tự tạo cho mình một bậc thang giá trị và trở thành thẩm phán tối cao cho mọi hành động của mình cũng như của người khác.

Những lời Chúa nói hôm nay không đơn thuần chỉ là bài học có tính cách luân lý. Chúa Giêsu không chỉ khuyên chúng ta không nên xét đoán người khác. Ngài còn mời gọi chúng ta tự đặt mình vào mối tương quan với Thiên Chúa: Chỉ có Thiên Chúa, Đấng thấu suốt lòng con người mới có thể xét xử con người. Nhìn nhận quyền xét xử của Thiên Chúa, con người cũng sẽ nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. “Hãy lấy cái dằm ra khỏi mắt ngươi trước đã”, nghĩa là hãy nhận ra thân phận bất toàn của mình trước.

Có nhận ra mối tương quan đích thực với Thiên Chúa, con người mới thấy được tương quan của mình với tha nhân. Thật thế, chối bỏ và cắt đứt mối tương quan với Thiên Chúa, con người sẽ đi đến chỗ chối bỏ tha nhân. Ngược lại, nhận ra Thiên Chúa là Chủ tể, con người cũng sẽ nhận ra thân phận thụ tạo yếu hèn của mình và tình liên đới với tha nhân.

Ngày xưa, nhà hiền triết Hy Lạp là Socrate đã đề ra khẩu hiệu như bài học vỡ lòng cho các môn sinh của mình: “Hỡi người, hãy tự biết mình”. Chúa Giêsu của chúng ta cũng đề cao sự sám hối: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. “Hãy sám hối” trước tiên là nhận ra thân phận bất toàn đầy dẫy những lỗi lầm thiếu xót của mình, để rồi từ đó con người sẽ biết sống cảm thông, kiên nhẫn, bao dung và tha thứ đối với người khác hơn. Sống như thế, con người mới đạt được cùng đích của mình là trở nên giống Thiên Chúa, chứ không phải trở thành Thiên Chúa để gạt bỏ chính Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.

Lịch sử đời sống tu trì ở những thế kỷ đầu của Kitô Giáo có ghi lại một giai thoại như sau:

Tại một tu viện nọ, có một tu sĩ bị bắt quả tang phạm một lỗi nặng. Vì ích chung của cộng đoàn, các tu sĩ ở chung nhà liền mở một phiên xử và mời vị Tu Viện Trưởng đến tham dự, nhưng ngài đã từ chối. Một vài người đại diện các tu sĩ đến nài nỉ:

- Xin cha đến giúp chúng con, vì chỉ có cha mới giúp cho chúng con biết phải phán xét và sửa trị người anh em này như thế nào.

Vì thế vị Tu Viện Trưởng nhận lời đến dự phiên xử.

Khi ngài đến thì mọi người ngạc nhiên, vì thấy ngài mang trên vai một cái giỏ đầy cát. Những hạt cát chui theo một lỗ hổng chảy dài trên lưng của ngài. Thấy mọi người ngạc nhiên, ngài giải thích như sau:

- Anh em hẳn đã thấy những hạt cát rơi lã trã trên lưng của tôi, nhưng tôi thì không hề nhìn thấy. Tội lỗi của tôi cũng giống như những hạt cát này, nó chảy tràn lan trong tôi mà tôi không nhìn thấy. Tội lỗi đầy tràn mà tôi không thấy, thì làm sao tôi dám đoán xét người khác.

 

24. Suy niệm của Lm. Alfonso

Tin Mừng Lc 6: 39-45 Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã chỉ rõ một thực tế rất thông thường, con người ta dễ thấy cái rác nhỏ xíu trong mắt người khác hơn là thấy cái xà to tướng nằm ngay trong mắt mình.

Suy niệm:

Trong cuộc sống, khi có dịp tụ lại với nhau ở nhà hay hàng quán, ngồi bên ly nước chén trà, người ta dễ kiếm câu chuyện làm quà. Và trong những cuộc chuyện vãn ấy, người ta hay khoe những điều tốt của bản thân, còn với những cái dở hoặc khuyết điểm của mình thì cố giấu cho bằng được. Thế nhưng, người ta lại thích bơi móc nhau, nhất là nói xấu người vắng mặt. Những khuynh hướng đoán xét vốn có nơi mỗi người chúng ta, lại lấy cớ là nhận định, góp ý, là hệ quả của một thái độ ganh tị, ghen tức, muốn hơn thua.

Vì thế, Bài đọc I trích sách Huấn Ca hôm nay giúp chúng ta học được những giáo huấn khôn ngoan. Khi chưa tìm hiểu kỹ càng, chúng ta sẽ dễ có những thiên kiến sai lệch về một người hay một việc nào đó. Cho nên chúng ta cần lắng nghe, đừng kết luận điều gì quá vội. Triết gia Socrate nói rằng: “Trời ban cho chúng ta có hai lỗ tai, hai con mắt, nhưng có một cái miệng và một cái lưỡi để chúng ta cần nhìn rõ hơn, nghe nhiều hơn và nói ít hơn”. Nếu chúng ta không thể nói tốt về người khác, thì tốt hơn hết, chúng ta hãy thinh lặng, hãy xin Chúa biến đổi anh chị em và biến đổi cả chúng ta nữa. Và để trước tiên chính chúng ta được biến đổi, chúng ta cần được Lời Chúa khai sáng.

Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã chỉ rõ một thực tế rất thông thường, con người ta dễ thấy cái rác nhỏ xíu trong mắt người khác hơn là thấy cái xà to tướng nằm ngay trong mắt mình. Chúng ta dễ nhận ra sai sót của người khác hơn là nhận ra khuyết điểm của bản thân. Đó là do chúng ta dễ dãi với bản thân nhưng lại khắt khe với người khác. Đây là căn bệnh mù quáng trong nhận thức, sẽ dẫn đến cái nhìn thiển cận.

Cho nên, nếu không lo huấn luyện lương tâm, nhận thức thì chúng ta sẽ như người mù vậy, và “Mù mà dắt mù thì cả hai sẽ rơi xuống hố”, đó là chuyện tất nhiên thôi. Nhưng nếu mắt không mù mà lại bị những chướng ngại vật trong mắt làm chúng ta có cái nhìn méo mó, sai lệch thì cần “Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em”. Làm sao chúng ta có thể dẫn đường cho người khác, nếu chúng ta chưa thông suốt.

Chuyện nồi cơm của Khổng tử:

Thời Đông Chu, chiến tranh liên miên, dân chúng phiêu bạt điêu linh. Thầy trò Khổng Tử đi du thuyết từ nước Lỗ sang nước Tề cũng lâm vào cảnh rau cháo cầm hơi nhưng không một ai kêu than, thoái chí. Trong đám đồ đệ có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai học trò thân tín nhất. Khổng Tử phân công Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi thì đảm nhận việc nấu cơm.

Sau khi Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, Nhan Hồi nấu cơm ở nhà bếp, Khổng Tử đang nằm đọc sách đối diện với nhà bếp, chỉ cách một cái sân nhỏ. Đang đọc sách bỗng nghe một tiếng “cộp” từ nhà bếp vọng lên, Khổng Tử nhìn xuống, thấy Nhan Hồi từ từ mở nắp nồi, lấy đũa xới cơm cho vào tay và nắm lại từng nắm nhỏ. Xong, Nhan Hồi đậy nắp lại, liếc mắt nhìn chung quanh rồi từ từ đưa cơm lên miệng. Hành động của Nhan Hồi không lọt qua đôi mắt của vị thầy tôn kính. Khổng Tử thở dài: “Chao ôi! Học trò ta tin tưởng nhất mà lại đốn mạt như thế này ư? Bao nhiêu kỳ vọng ta đặt vào nó thế là tan thành mây khói!” Sau đó, Tử Lộ cùng các môn sinh khác đem rau về. Nhan Hồi và Tử Lộ dọn cơm lên nhà trên; tất cả các môn sinh chắp tay mời Khổng Tử dùng cơm. Khổng Tử ngồi dậy và nói rằng: “Các con ơi! Chúng ta đi từ đất Lỗ sang Tề đường xa vạn dặm, trong hoàn cảnh đói khổ  này mà các con vẫn giữ được tấm lòng trong sạch, yêu thương đùm bọc nhau. Hôm nay, bữa cơm đầu tiên trên đất Tề làm thầy chạnh lòng nhớ đến tổ tiên và quê hương nước Lỗ. Cho nên thầy muốn xới một chén cơm để cúng cha mẹ thầy, nhưng không biết nồi cơm này có sạch hay không?” Bấy giờ Nhan Hồi liền chắp tay thưa: “Dạ thưa thầy, nồi cơm này không được sạch.” Rồi Nhan Hồi thưa: “Khi cơm chín con mở nắp nồi ra xới, chẳng may một cơn gió tạt ngang, bồ hóng và bụi trên nhà rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm. Song, con lại nghĩ: cơm thì ít, anh em lại đông, nếu bỏ lớp cơm bẩn này thì vô tình làm mất một phần ăn. Vì thế, con đã mạn phép thầy và tất cả anh em, ăn trước phần cơm bẩn ấy, còn phần cơm sạch để dâng thầy và anh em. Vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi, bây giờ, con xin phép không ăn cơm nữa. Và nồi cơm đã ăn trước thì không nên cúng nữa ạ! Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử ngửa mặt lên than rằng: “Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà chưa chắc đúng sự thật! Suýt tí nữa là Khổng Tử này trở thành kẻ hồ đồ!”

Chúng ta được chỉ bảo dùng Tin Mừng giúp mở mắt Kitô hữu để nhận ra những giá trị đích thực của cuộc sống. Nếu không để cho Tin mừng soi dẫn, người môn đệ sẽ mãi mãi tiếp tục số kiếp mù lòa tăm tối. Nếu không có ánh sáng Tin Mừng soi chiếu, chúng ta sẽ không có lòng nhân từ như Cha trên trời. Mà chính sức mạnh của lòng nhân từ mới có sức biến đổi lòng con người với nhau. Vậy chúng ta hãy tập cho mình có cái nhìn tốt về người khác, chúng ta mới suy nghĩ tốt và rồi mới nói tốt về người khác.

Lạy Chúa, với lời cầu nguyện của thánh Augustinô: "Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con" cũng là lời cầu nguyện của mỗi người chúng con. Xin cho con nhận ra lòng quảng đại yêu thương vô bờ của Chúa; và biết ý thức về sự yếu đuối của mình, nhờ đó chúng con cũng biết rộng lượng trong cách đối xử với anh chị em như vậy. Amen.

 

25. Cái rác, cái xà

Sao anh lại có thể nói với người anh em: này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong mắt anh ra, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong mắt người anh em! (Lc. 6, 42)

Chúa có lý, chắc chắn đúng! thực vậy làm sao người mù lại có thể dắt người mù được! nhất là không thấy cái xà trong mắt mình thì làm sao thấy cái rác trong mắt người lân cận được. Kẻ đó quá bệnh tật, không chỉ bệnh mù mắt mà còn mù trí khôn, không thấy và cũng không biết suy nghĩ phán đoán.

Biết bao nhiêu kẻ mù như thế trên con đường nhân trần này! có thể trong đó có tôi! biết bao nhiêu người tưởng mình có cái nhìn sâu sắc thiên bẩm, nhưng chỉ khi nhìn người khác thôi, còn mình thì lại mù. Tất cả chúng ta ít nhiều đều mắc tật đó! nếu chúng ta có cái nhìn khách quan, chúng ta sẽ run sợ vào chính mình và nhận ra tại sao mình lại sùng bái cái xà trong mắt mình mà lại không tôn trọng người khác chỉ có cái rác thôi. Lúc đó chúng ta mới lo sửa mình.

Khi Đức Kitô nói về những người biệt phái và về những tiến sĩ luật: “Hãy làm những điều họ nói và đừng làm như họ sống, họ đặt những gánh nặng cho người khác, còn họ không vác”. Chúng ta có thể chắc rằng họ phải nổi giận bất bình với lời tố cáo như thế vì họ không cho họ là giả hình. Chúng ta có tốt hơn họ chăng?

Chúng ta tố giác anh chị em mình, chê trách họ đủ điều sai trái, chúng ta thấy họ nhiều thiếu xót không thể tha thứ được, không thể khoan hồng, không thể thông cảm và không cần tử tế với họ. Chúng ta sẽ giật mình ghê sợ nếu họ cũng kết án chúng ta như chúng ta kết án họ, nếu họ bảo chúng ta biết rõ những lỗi lầm của chúng ta như chúng ta khám phá thấy nơi họ.

Chúng ta mù lại thích tôn mình hướng dẫn người mù khác!

Trái lại, người khác phải là cái gương giúp ta soi thấy ta, nếu không thì không thể tha thứ cho ta được. Chúng ta thích than trách thảm thiết những nhỏ nhen người ta làm cho ta phải chịu, vậy ta hãy tự hỏi mình xem ta có làm đúng như họ không? Cái xà chống cái xà, cái rác chọi cái rác. Hãy nhớ: “Ác giả ác báo, tích thiện giả thiện”.

 

26. Cẩn thận về việc xét đoán

"Xem quả thì biết cây" (Lc 6,44)

Sợi chỉ đỏ:

Cuối bài Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu khuyến cáo đừng xét đoán. Lời Chúa hôm nay nói tiếp về đề tài xét đoán:

- Trước khi xét đoán người khác thì phải tự xét đoán bản thân (Bài Tin Mừng)

- Phải xét đoán cẩn thận dựa trên nguyên tắc nhân quả, vì "xem quả thì biết cây" (Bài đọc I và Bài Tin Mừng)

I. DẪN VÀO THÁNH LỄ

Anh chị em thân mến

Bắt đầu mỗi Thánh lễ, chúng ta đều được kêu gọi hãy kiểm điểm lương tâm và nhận biết tội lỗi. Không phải nhận biết tội lỗi của người khác mà tội lỗi của chính mình; nhận biết như thế rồi không phải để trách người khác mà để tự trách mình và nhận lãnh trách nhiệm của mình mà sửa đổi.

Giờ đây mỗi người chúng ta hãy kiểm điểm lương tâm và thành tâm sám hối.

II. GỢI Ý SÁM HỐI

- Chúng con thường làm ngơ trước khuyết điểm của mình, nhưng lại khắt khe với lỗi lầm của người khác.

- Chúng con hay phê phán và lên án người khác.

- Chúng con thường sống giả hình.

III. LỜI CHÚA

1. Bài đọc I (Hc 27,4-7)

Sách Huấn ca gom góp những giáo huấn giúp sống khôn ngoan. Trong trích đoạn hôm nay, giáo huấn nhắm đến lời nói:

- Lời nói bộc lộ cái dở của một con người

- Nghe người ta nói, ta mới biết rõ ai rởm ai hay.

- Chớ vội khen hay chê khi chưa nghe người ta nói.

2. Đáp ca (Tv 91)

Người công chính thật được nhìn thấy qua cuộc sống tốt lành của mình: họ như cây dừa tươi tốt được trồng nơi Nhà Chúa, già cỗi rồi vẫn sinh hoa kết quả, tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn.

3. Tin Mừng (Lc 6,39-45)

Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy cho môn đệ mình 3 điều:

- Dụ ngôn người hướng dẫn mù và cái xà trong mắt: Nếu người môn đệ Chúa mà mù quáng thì sẽ dẫn người khác đi vào sai lầm. Bởi thế, trước khi sửa lỗi người khác, mỗi người hãy tự sửa lỗi của mình.

- Dụ ngôn Cây và Trái (cc 43-44): Chỉ có thể tránh nguy hiểm giả hình nếu như hành động bề ngoài của ta hợp với bên trong của ta. Đối với biệt phái và luật sĩ, một hành động được coi là tốt khi nó phù hợp với Luật. Chúa Giêsu sâu sắc hơn: một hành động là tốt, khi nó hợp với một tâm hồn tốt, một tâm hồn tốt sẽ sinh ra những hành động tốt.

- Dụ ngôn kho tàng trong lòng (c 45): Chúa Giêsu so sánh cõi lòng con người như một kho tàng. Nó là nơi xuất phát những lời nói và việc làm hoặc tốt hoặc xấu. Từ kho tàng tốt thì sẽ phát ra những lời nói việc làm tốt. Bởi thế người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng lòng mình chứa đầy những điều tốt. Những điều tốt phải chứa trong kho tàng lòng mình là gì? Đó là những giáo huấn của Chúa Giêsu.

4. Bài đọc II (1 Cr 15,54-58) (Chủ đề phụ)

Đây là đoạn cuối của chương 15 thư I Côrintô bàn về vấn đề kẻ chết sống lại. Trong đoạn này, Thánh Phaolô rút ra những hệ luận từ tín điều sống lại:

- Cuối cùng Tử thần cũng phải bị đánh bại.

- Tín hữu hãy kiên tâm bền chí, tích cực tham gia vào công việc của Chúa, bởi xác tín rằng trong Chúa thì mọi khó nhọc sẽ không trở nên vô ích.

IV. GỢI Ý GIẢNG

* 1. Bàn về lời nói

Ben Sira, tác giả sách Huấn Ca, cho rằng lời nói có giá trị bộc lộ sự thật: dựa vào lời nói của một người, ta có thể biết người ấy thực ra là dở hoặc hay. Hơn nữa, lời nói của một người còn giúp ta hiểu được lòng của người đó.

Nhưng Chúa Giêsu thì dạy khác: điều quan trọng không phải là nói, mà là làm. Ngài đã trách các kinh sư do thái rằng "Họ nói mà không làm" (Mt 23,3).

Không phải giáo huấn của Cựu Ước và Tân Ước nghịch nhau. "Lời nói" mà Ben Sira đề cập là lời thốt ra cách hồn nhiên, chân thành, chưa bị ngụy trang hay uốn nắn bởi những toan tính quanh co.

Ngày nay người ta phát triển những kỹ thuật để nghiên cứu và khảo sát lời nói: phân tích từng chữ từng câu để khám phá ý nghĩa thật. Các nhà phân tâm còn tìm cách cho bệnh nhân nói để chữa trị tâm bệnh của họ.

Lời khuyên của Ben Sira có lẽ không hợp nếu ta dùng nó để xét đoán lời nói của người khác, nhưng rất hữu ích nếu ta dùng để tự xét đoán bản thân:

- Tôi thường nói những chuyện gì? Nói nhiều về một vấn đề chứng tỏ tôi quan tâm nhiều hay bị ám ảnh bởi vấn đề đó.

- Tôi thường phê bình chỉ trích hay khích lệ, ủi an? Điều này giúp tôi biết tôi là người hẹp hòi hay rộng lượng; là người gây chia rẻ xáo trộn hay là người kiến tạo bình an.

- Khi nói về bản thân, giọng điệu của tôi thế nào? Điều này cho thấy tôi kiêu căng hay khiêm tốn.

* 2. Sửa mình trước khi sửa người

Chúa Giêsu chỉ rõ một thực tế rất thông thường: Thấy cái rác nhỏ xíu trong mắt người khác thì dễ hơn thấy cái xà to tướng nằm ngay trong mắt mình. Thấy khuyết điểm của người khác dễ hơn nhận ra khuyết điểm của mình.

Lý do là mình thường dễ dãi với bản thân và khắt khe với người khác. Đó là khuynh hướng tự nhiên. Nhưng đó là một căn bệnh: bệnh mù quáng, bệnh lệch lạc.

Ta có thể áp dụng giáo huấn của Chúa Giêsu vào hai trường hợp:

- Áp dụng cho chính bản thân: hãy cẩn thận đừng phê phán người khác, vì chưa chắc gì mình đã tốt hơn ai.

- Khi lãnh trách nhiệm lãnh đạo: vì trách nhiệm mà nhiều khi ta phải sửa lỗi người khác. Để cho lời nói của ta không là giả hình, để cho lời sửa dạy của ta có sức thuyết phục, ta hãy lo sửa đổi bản thân trước, nhờ đó ta trở thành một tấm gương, và tấm gương đó hỗ trợ khiến cho lời sửa đổi của ta đáng được người khác nghe theo.

* 3. Cây đời xanh tươi

Triệu Quát là con trai cha Triệu Xa - một danh tướng thời Chiến Quốc - thời trai trẻ từng đọc rất nhiều binh thư. Là một người khá thông minh, thích nói về quân sự, người khác không nói lại được, cha anh là Triệu Xa đôi khi cũng không tranh luận nổi với anh. Do đó, anh tỏ ra kiêu ngạo, tự cho mình là giỏi nhất thiên hạ.

Tuy nhiên Triệu Xa lại rất lo lắng cho con mình, ông cho rằng Triệu Quát chẳng qua chỉ nói phét. Ông còn nói: "Sau này nước Triệu không nên dùng nó, kẻo nó sẽ làm cho quân Triệu đại bại".

Quả thật, khi quân Tần sang xâm lược, vua Triệu quyết định cử Triệu Quát thay thế Liêm Pha. Lạn Tương Như đang bệnh cũng phản đối: "Triệu Quát chẳng qua chỉ là đọc được một số sách binh thư của cha mình, căn bản không biết vận dụng thế nào, không thể cử hắn làm tướng". Mẹ của Triệu Quát cũng đến gặp vua Triệu nói rằng con mình không thể làm đại tướng.

Nhưng vua Triệu không nghe, vẫn cử Triệu Quát ra tiền tuyến nghênh địch, hậu quả là 40 vạn quân Triệu chỉ trong chốc lát đã bị tiêu diệt hoàn toàn, bản thân Triệu Quát cũng tử trận thê thảm.

***

"Mù mà lại dẫn mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố" (Lc 6, 39). Làm nhà lãnh đạo hay người hướng dẫn phải có đủ tài đức; phải sáng suốt trong tư tưởng, khôn ngoan trong lời nói, và liêm chính trong việc làm, để khỏi dẫn đưa người khác cũng như chính mình vào con đường lầm lạc hay diệt vong. Những kẻ khoác lác, dối trá, giả hình có thể nhất thời lừa bịp được một số người, nhưng sớm muộn cũng sẽ bị bại lộ và sẽ phải chuốc lấy hậu quả khó lường: "Cây kim trong bọc lâu ngày cũng phải lòi ra".

Cha mẹ của Triệu Quát vì sống cùng anh ta, nên thấu hiểu lời nói và việc làm của con mình không thể đảm nhận việc lớn. Nhưng vua Triệu không quan tâm đến câu: "Lời nói phải đi đôi với việc làm", cứ cho rằng Triệu Quát là bậc kỳ tài trong thiên hạ và trao cho việc lớn. Kết quả không chỉ Triệu Quát bị hại mà còn liên quan đến tính mạng của 40 vạn quân. Mù mà dẫn mù thì việc sa xuống hố chỉ là sớm hay muộn mà thôi.

"Sao anh thấy cái rác trong mắt anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới" (Lc 6,41). Người ta thường rất hà tiện trong lời khen ngợi, nhưng lại quảng đại trong tiếng chê bai. Có thể nói một trong những tội con người dễ phạm nhất: đó là hay xét đoán, nghĩ xấu, nghĩ sai cho người khác.

Để có đôi mắt trong sáng, chúng ta không nên nhìn vào đôi mắt kẻ khác để thấy "cái rác" trong đó, hay "bới lông tìm vết" để xét đoán, chỉ trích họ, nhưng hãy nhìn vào chính đôi mắt tâm hồn mình, để thấy "cái đà" của kiêu căng tự mãn, của phô trương giả hình, để thanh lọc cho nên trong sáng. Vì người xưa có câu: "Việc người thì sáng, việc mình thì quáng", nên việc nhìn lại chính mình để tự kiểm thảo luôn là điều cần thiết của mỗi tín hữu Ki tô, nhất là những vị lãnh đạo, hướng dẫn các tâm hồn. Triết gia Chilon cũng cho chúng ta một luật sống bất hủ: "Hãy tự biết mình". Thánh Augúttinô thường cầu nguyện: "Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con".

Biết mình thường hèn yếu lỗi lầm để đừng bao giờ khắt khe lên án anh em.

Biết mình hay che đậy giả hình để cảm thông dung thứ cho kẻ khác.

Biết mình thích phô trương háo thắng để đừng phê phán nhạo báng một ai.

Một tác giả kia đã nhận định: Những kẻ may mắn thường là những người có tâm hồn lạc quan vui vẻ, họ có thói quen nhìn vào mặt tích cực của sự việc và vào điều tốt của kẻ khác. Trái lại, những kẻ bất hạnh thường có thái độ tiêu cực, thù hằn, họ thích nhìn vào điều tồi tệ nơi kẻ khác, họ rất ham chỉ trích; và ưa "vạch lá tìm sâu".

Đúng như lời Chúa Giêsu đã nói trong đoạn Tin Mừng hôm nay: "Cây tốt thì sinh trái rốt, cây xấu thì sinh trái xấu" (Lc 6,43). Lời nói việc làm của người tín hữu Ki tô chỉ có thể sinh hoa kết trái tốt tươi, nếu siêng năng suy niệm và thực hành Lời Chúa. Đời sống của chúng ta chỉ có thể "phát xuất ra sự lành" nếu chúng ta được nuôi dưỡng bằng Mình Thánh Chúa vì Lời Chúa là lời yêu thương và Mình Chúa là Bí tích tình yêu. Những ai sống trong vị kỷ, xét đoán, chỉ trích và thù hằn, kẻ ấy sẽ chết trong bóng tối gian ác của chính mình.

***

Lạy Chúa, xin đừng để chúng con khô héo trong thái độ chỉ trích, trong lối nhìn tiêu cực, trong cách nghĩ đen tối, nhưng xin cho cây đời chúng con được xanh tươi để sinh hoa kế trái của an bình, hạnh phúc và yêu thương. Amen. (Thiên Phúc)

* 4. Phải để ý đến lầm lỗi của chính mình

Một thầy dòng trẻ tuổi kia phạm một lỗi nặng. Lập tức các thầy dòng lớn tuổi họp lại để lên án anh ta. Tuy nhiên cần phải có mặt của Thầy Bề Trên thì phiên họp mới tiến hành được. Vì thế họ phái người đi mời Bề Trên: "Xin Bề trên đến mau, cộng đoàn đang chờ Thầy". Thầy Bề Trên đứng dậy, lấy một chiếc thúng có nhiều lỗ thủng. Thầy đổ đầy cát vào thúng, rồi mang nó sau lưng đi đến phòng họp. Dĩ nhiên cát rơi đầy dọc đường. Các Thầy già hỏi Bề Trên làm việc đó vì ý gì thế. Và Thầy Bề trên trả lời: "Tội lỗi tôi rơi đầy sau lưng tôi. Tôi đi đến đâu cũng để lại một dãy tội phía sau. Chỉ có điều là tôi không thấy chúng. Thế mà hôm nay anh em lại bảo tôi ngồi tòa kết tội một người anh em của tôi sao!" Nghe thế, các thầy già xấu hổ và bỏ ý định lên án ông thầy trẻ.

Ai trong chúng ta cũng có thể trở thành những chuyên gia tìm ra tội người khác và phê phán họ. Nhưng những kẻ phê phán không phải là những người cải tạo thế giới. Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy lấy cái xà trong mắt mình ra trước, rồi mới tính đến chuyện lấy cái rác khỏi mắt anh em. Chúng ta phải lo dọn dẹp nhà mình cho ngăn nắp trước, rồi mới bảo người khác dọn dẹp nhà họ. Nếu không làm như thế thì chúng ta không phán đoán anh em vì quan tâm tới họ, mà chỉ vì thù ghét muốn làm hại họ. Ít có việc nào thoả mãn tính ích kỷ của mình cho bằng vạch tội người khác.

Một người dẫn đường chỉ có thể dẫn dắt người khác nếu bản thân người ấy thấy rõ con đường. Một người thầy dạy chỉ có thể chia xẻ cho người khác những kiến thức mà mình đã biết. Nếu không muốn làm một người hướng đạo mù, thì ta phải biết tự phê phán mình.

Chúng ta rất tích cực sửa lỗi người khác vì nghĩ rằng nếu mọi người khác trong cộng đoàn của mình mà biết được lỗi lầm và sửa chữa thì đời sống cộng đoàn sẽ tốt đẹp biết mấy. Nhưng ngược lại chúng ta rất khó chịu khi bị người khác vạch lỗi của chúng ta ra. Phải chăng đó là biểu hiện của tính ích kỷ?

Một người kia có thói quen hút thuốc và có nuôi một con vẹt. Một ngày kia anh thấy con vẹt cứ ho mãi, anh liền bỏ hút thuốc. Anh còn mời một bác sĩ thú y đến khám xem khói thuốc đã làm hại sức khoẻ con vẹt đến mức nào. Sau khi khám rất kỹ, bác sĩ cho biết con vẹt chẳng bị bệnh gì cả. Sở dĩ nó ho là vì nó bắt chước những cơn ho của chủ nó thôi. Khi đó, người ấy mới khám phá mình bị bệnh ho!

Người đạo đức giả – mà Chúa Giêsu gọi là giả hình – là người chỉ lo sửa lỗi kẻ khác. Người đạo đức thật là người biết tự sửa mình. (FM)

* 5. Cái xà trong con mắt

Không có gì làm ta mù quáng cho bằng để ý đến lỗi lầm của người khác.

Ngày xưa có một con tê giác luôn bị ám ảnh bởi ý tưởng mình là người hoàn hảo. Bởi thế nó tự cho mình có trách nhiệm sửa chữa những khuyết điểm của các con vật khác. Mà theo nó nghĩ, khuyết điểm nghiêm trọng nhất là có sừng trên đầu, cho nên tất cả những con vật có sừng đều không được ở yên với nó.

Thế nhưng nó đâu có biết rằng nó có một cái sừng mọc ngay trên cái mũi xấu xí của nó. Những con vật kia đều thấy rõ điều đó, nhưng chẳng con nào đủ can đảm nói cho nó biết.

Một hôm, con tê giác đang đi uống nước thì nghe tiếng một con chích choè đang hót trên cành cây. Nó bực mình thét to: "Im đi, cái con chim xấu xa. Mầy không thấy tao đang uống nước sao?". Con chích choè không chịu thua, cãi lại: "Bộ ông đẹp đẽ lắm sao? Ông thử soi mặt ông trên mặt nước rồi sẽ biết". Con tê giác nghĩ trong bụng: "Soi thì soi. Ai mà không biết ta là người hoàn hảo". Nhưng vừa nhìn xuống mặt nước, tê giác nhà ta bỗng giật mình vì khám phá một chiếc sừng quái dị nằm ngay trên mũi mình. Biết mình còn xấu xí hơn tất cả các con vật có sừng khác, nó xấu hổ quá: "Ta không thể nhìn mặt các con vật khác được. Ta tiều đời rồi". Kể từ hôm đó, khi đi, nó luôn cúi gằm mặt xuống đất. Nó cũng chẳng dám cho ai thấy mặt cả, cứ trốn trong các lùm cây.

Nhưng làm sao trốn tránh mãi được. Cuối cùng nó chẳng còn lựa chọn nào khác là chấp nhận sự thật. Khi đã có can đảm đối diện với chính mình, nó cũng dần dần can đảm đối diện với các con vật khác. Và các con vật kia rất ngạc nhiên khi gặp lại nó: một anh tê giác khác hẳn trước, thật hiền lành và dễ thương làm sao!

Con tê giác của chúng ta đã thay đổi nhờ biết chấp nhận những con vật khác, không phải theo hình ảnh mà nó muốn, nhưng đúng với hình ảnh thật của chúng, nghĩa là có sừng, có gai và có đủ thứ khuyết điểm khác. Nó cũng thay đổi nhờ biết chấp nhận bản thân mình, không xấu hổ vì chiếc sừng của mình nữa và cũng không lo các con vật kia sẽ nghĩ sao về nó nữa.

Chúa Giêsu bảo chúng ta đừng mất công tìm trái vả nơi bụi gai, hay tìm trái nho nơi bụi rậm. Nơi cây nào thì tìm trái của cây ấy. Bài học này có thể áp dụng cho việc đánh giá về người khác và về chính bản thân mình. (FM)

* 6. Sửa đổi tính tình

Một thầy tu kia có khuynh hướng hay nổi giận. Khuynh hướng này khiến thầy trở thành một gánh nặng không những cho người khác mà còn cho cả bản thân thầy. Thầy tin rằng thầy chẳng tiến bộ chút nào trên đường nhân đức. Thầy nói rằng nhưng người khác khiến thầy phải thụt lùi vì cứ làm phiền thầy và luôn quấy rầy khi thầy cầu nguyện.

Vì thế thầy quyết định rời tu viện để vào rừng ẩn tu. Thầy nghĩ rằng đó là cách khỏi phải bị người khác làm phiền và nhờ đó mà bỏ được tính nóng giận. Thế là thầy dựng một căn lều trong rừng, chẳng mang theo gì khác ngoài một bình nước. Nhưng trong một lần bất cẩn, thầy làm đổ bình nước, nên phải trở về tu viện để lấy bình nước khác. Tuy nhiên khi trở về lều, thầy lại bất cẩn làm đổ nước nữa. Lại chịu khó lần nữa. Nhưng sự việc lại tái diễn lần thứ ba. Khi ấy cơn giận bốc lên ngùn ngụt. Thầy dập chiếc bình vỡ tan tành, rồi ngồi bẹp xuống đất, hoàn toàn thất vọng về bản thân mình.

Khi cơn giận nguội xuống, thầy bắt đầu suy nghĩ và nhận ra rằng cái tính nóng giận của Thầy không phải do nơi những thấy khác mà do chính bản thân mình. Tính xấu đó nằm ngay trong con người thầy, cho nên dù thầy đã vào tận trong rừng sâu, nó vẫn còn đi theo thầy.

Thế là Thầy quyết định trở lại tu viện, xin lỗi các thầy khác và hứa sẽ cố gắng sửa tính nóng.

Chẳng khó gì nhận ra chính chúng ta trong câu chuyện trên. Khi gặp một vấn đề trục trặc, chúng ta hay đổ lỗi cho người khác. Thế nhưng nguyên do những trục trặc của chúng ta nằm ngay nơi bản thân chúng ta chứ không nơi người khác. Vậy chúng ta phải lo sửa mình trước, rồi mới có thể sống hòa thuận với người khác được. (FM)

* 7. Chuyện minh họa

Một nhà đại thần bí Ấn độ nói về chính mình: "Tôi là một nhà cách mạng khi còn trẻ, và tất cả những gì tôi cầu nguyện với Chúa là: "Lạy Chúa, xin cho con quyền lực để cải tạo thế giới"

Khi đến tuổi trung niên, tôi nhận ra rằng nửa cuộc đời qua đi mà không một tâm hồn nào được thay đổi. Tôi đổi lại lời cầu: "Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải tất cả những người tiếp xúc với con.

Bây giờ tôi đã già và gần kết thúc cuộc đời. tôi cảm thấy mình ngu dại biết bao. Lời câu nguyện của tôi bây giờ là: "Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải chính con". Nếu tôi xin điều này ngay từ đầu, tôi đã không lãng phí cuộc đời".

V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu mời gọi hết thảy mọi Kitô hữu hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời. Với ước muốn nên trọn lành, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin:

1. Hội thánh luôn cần những vị mục tử tài đức và thánh thiện để hướng dẫn Dân Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho Hội thánh nhiều vị mục tử khôn ngoan / sáng suốt và nhiệt tình trong đời sống mục vụ.

2. Ngày nay / tội ác diệt chủng vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa hoán cải con tim của người thời nay / để họ biết tránh xa tội ác / và nỗ lực làm nhiều việc thiện / nhờ đó nhân loại tránh được biết bao thảm họa đau lòng.

3. Trong cuộc sống thường ngày / có những người lúc nào cũng thích ngồi ghế thẩm phán / xét xử và kết án anh em mình cách vô trách nhiệm / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / luôn ý thức thân phận tội lỗi yếu đuối của mình / để đừng bao giờ lên án bất cứ ai.

4. Xét mình là một việc làm hết sức cần thiết trong đời sống đức tin của người Kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mỗi thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết trung thành xét mình mỗi ngày / để sửa chữa những thiếu sót lỗi lầm.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: Chính anh em là muối cho đời và là ánh sáng cho trần gian. Xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con luôn giữ vững phẩm chất của người Kitô hữu chân chính. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

 NGUON:http://gplongxuyen.org/tin-tuc/-chua-nhat-27022022-chua-nhat-8-thuong-nien-nam-c-cai-rac-cai-da.html