Tương quan giữa thầy thuốc và bệnh nhân

 

Chưa bao giờ quan hệ giữa bệnh nhân và thầy thuốc ở nước ta lại nóng bỏng như hiện nay. Các báo, đài đưa tin tràn ngập về các bê bối của ngành y tế, các vụ gây rối hành hung của người nhà bệnh nhân đối với nhân viên y tế xảy ra ở khắp các vùng miền. Người bệnh đến bệnh viện với tâm lý bất an. Họ phải giao phó tính mạng, sức khỏe của mình cho đội ngũ nhân viên y tế nhưng lại lo lắng không tin tưởng hoàn toàn vào đội ngũ nhân viên y tế. Ngược lại, các nhân viên y tế cũng cảnh giác với người bệnh, phải luôn thủ thế cho mình vì bất cứ lúc nào cũng có nguy cơ bị bệnh nhân trốn, bùng viện phí, bị khiếu kiện hoặc đe dọa hành hung.
Tại sao mối quan hệ giữa bệnh nhân thầy thuốc từ thái cực thương yêu, cảm thông và tin tưởng, biết ơn lại quay ngoắt 180 độ như vậy. Hãy điểm lại các mối quan hệ giữa bệnh nhân với thầy thuốc bằng con mắt lịch sử để xem liệu chúng ta có thể xây dựng mô hình nào cho quan hệ này trong tương lai được tốt đẹp hơn.

Quan hệ Cống hiến – Thụ hưởng.

Đây là quan hệ mà cả giai đoạn dài xây dựng nền y tế xã hội chủ nghĩa chúng ta đã cố gắng thiết lập. Trong mối quan hệ này, thầy thuốc là người cống hiến toàn bộ còn bệnh nhân là người thụ hưởng toàn bộ. Mô hình này có nguồn gốc xa xưa từ các bệnh viện, dưỡng đường của các tu viện ở châu Âu thời xưa, trong đó các Thầy thuốc – Thầy tu cống hiến tất cả cho bệnh nhân để được Chúa thưởng công ở ngày phán xét cuối cùng. Ngay cả thời nay vẫn còn những vĩ nhân sắn sàng hy sinh cả cuộc đời mình vì sức khỏe của nhân dân: Alecxandre Yersin, Jess W. Lazear, Đặng Văn Ngữ, vv. 

Mô hình này đòi hỏi điều kiện là người thầy thuốc phải chấp nhận hy sinh quyền lợi của mình hoặc họ được Nhà nước đảm bảo cuộc sống toàn bộ. Muốn thầy thuốc chấp nhận hy sinh quyền lợi bản thân thì cần chú trọng phát triển đào tạo nghề y cho những người đặc biệt không vướng bận gia đình, có rất ít nhu cầu vật chất cho bản thân như các thầy tu, ni cô, masour vv. Còn việc nhà nước đảm bảo cuộc sống toàn bộ cho các y bác sĩ là không khả thi hiện nay vì mức lương cơ bản nhà nước quy định chỉ đảm bảo 60-65% đời sống tối thiểu, trong khi ở xã hội nào thì bác sĩ cũng được coi là giới trí thức thượng lưu và xứng đáng được hưởng mức sống cao hơn so với những người làm nghề lao động giản đơn.
Mặc dù đa số bác sĩ, y tá của chúng ta đều là những người bình thường. Họ cũng có gia đình, con cái, cũng phải lo cái ăn, cái mặc, phải đối mặt với các nhu cầu và áp lực kinh tế hàng ngày, tuy vậy trong từng hoàn cảnh đặc biệt, họ cũng có thể thể hiện tinh thần cống hiến hy sinh cao cả không toan tính đến quyền lợi cá nhân. Trong vụ dịch SARS ở Việt nam năm 2003, mọi người đều biết đến bác sĩ Carlo Ubani hy sinh thân mình trong vụ dịch, nhưng cũng ít người biết rằng có hàng trăm nhân viên bệnh viện Việt pháp Hà nội, bệnh viện Nhiệt đới trung ương mặc dù biết đối mặt trực tiếp với nguy cơ lây nhiễm, tử vong nhưng cũng không ai chối bỏ nhiệm vụ. Tuy vậy tinh thần hy sinh này có thể xuất hiện trong từng thời khắc, từng con người chứ không thể đòi hỏi rộng rãi ở tất cả mọi người mọi lúc. Việc áp dụng cưỡng bức mô hình quan hệ này một cách rộng rãi gây loại bỏ toàn bộ các động lực kinh tế trong hoạt động của người thầy thuốc, tất yếu sẽ dẫn đến sự thoái hóa thành mối quan hệ xin – cho

Quan hệ Xin – Cho

Quan hệ cống hiến – thụ với đặc trưng là một chiều nên phải xuất phát từ sự hy sinh tự nguyện của bên cống hiến. Nếu áp đặt bằng mệnh lệnh hành chính thì rất dễ biến tướng thành quan hệ xin – cho trong đó thầy thuốc với vai trò ban phát và người bệnh phải đi xin ân huệ ban phát.
Những ai sống qua thời bao cấp đều đã rõ mối quan hệ này tệ hại đến mức nào. Hàng tháng mỗi bệnh viện, mỗi khoa được cấp một số lượng tích kê phim X-quang, thuốc men nên những chưa chắc bệnh nhân nặng được hưởng sự chăm sóc y tế tốt hơn mà lại là bệnh nhân “biết điều” mới được hưởng. Bác sĩ kê đơn thuốc, ra cửa hàng dược, dược sĩ cắt bớt chỉ cấp một nửa đơn cho bệnh nhân. Trong xã hội hình thành các nhóm lợi ích: Ông trưởng cửa hàng lương thực, thực phẩm đến bệnh viện sẽ được chăm sóc tốt hơn. Đổi lại, ông bác sĩ khi đi mua gạo, thịt sẽ được dành cho phần gạo thịt ngon hơn. Còn nếu bệnh nhân chỉ là dân đen thì không còn cách nào khác là phải quỵ lụy xin xỏ thầy thuốc và thầy thuốc có cơ hội để thể hiện thói cửa quyền, hách dịch, quan liêu của mình.Thế nên dù rằng tiêu chuẩn bao cấp của cán bộ nhà nước ai cũng như ai: 13kg gạo, dăm lạng thịt mỗi tháng nhưng nhìn chung các bác sĩ, y tá vẫn dễ sống hơn các thành phần khác trong xã hội. Câu nói “Nhất y nhì Dược” hình thành từ giai đoạn này.
Quan hệ xin – cho chỉ xuất hiện khi yếu tố thị trường tự do bị loại bỏ hoặc bị hạn chế. Một bên có cái để cho hoặc bán rẻ, một bên cần nhưng không thể mua được cái mình cần hoặc muốn chạy chọt để được mua rẻ. Một khi hình thành thị trường tự do và sòng phẳng, quan hệ xin – cho ngay lập tức bị loại bỏ.

Quan hệ Đối tác – Phối hợp

Là mối quan hệ trong đó mỗi bên đều có quyền lợi của mình trong quá trình khám chữa bệnh. Rất ít khi hình thành mối quan hệ này mà thường nó chỉ xuất khi bệnh nhân tham gia vào một chương trình nghiên cứu của bác sĩ, trong đó người bệnh được ích lợi chữa khỏi bệnh, thầy thuốc có lợi ích thu thập được thông tin cho nghiên cứu của mình. Hoặc cũng có thể có những trường hợp người thầy thuốc trong giai đoạn nào đó cần nâng cao uy tín, địa vị nghề nghiệp bằng những ca thành công vang dội nên tận tụy ngày đêm để cứu chữa thành công bệnh nhân. Tuy nhiên, trong cuộc đời người thầy thuốc không chỉ cần có uy tín tiếng tăm hay kết quả nghiên cứu cao siêu mà còn cần phải kiếm tiền để sống và ngay cả để mua váy cho vợ, mua tã cho con nữa. thế nên mối quan hệ này dù khá tốt nhưng cũng thể nhân rộng.

Quan hệ Mua – Bán.

Trong thời bao cấp, bất cứ ông thầy nào, dù thầy giáo hay thầy thuốc nói đến quan hệ mua bán đều bị khinh rẻ. Nhưng sang thời kinh tế thị trường, các quy luật của thị trường xâm nhập vào tất cả các mối quan hệ xã hội. Ngành y tế cũng là một ngành dịch vụ nên khó có thể thoát ra khỏi các quy luật này. Trong mối quan hệ này, bệnh nhân là người trả tiền dịch vụ, thầy thuốc là người bán dịch vụ. Ở một thị trường minh bạch và ổn định người mua đóng vai trò là “thượng đế” trả tiền nuôi sống người bán. Người bán xuất phát từ lợi ích kinh tế của mình, cố gắng nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và chăm sóc để thu hút khách hàng. Mối quan hệ này đảm bảo sự bình đẳng giữa thầy thuốc trong vai trò người cung cấp dịch vụ và bệnh nhân là người thụ hưởng dịch vụ.

Tuy nhiên, khi chấp nhận thị trường thì tất yếu phải chấp nhận mặt trái của nó. Điều dễ xảy ra nhất là sự rối loạn cân bằng cung cầu. Khi cung thấp, cầu cao thì sẽ dẫn đến sự tăng giá trong ngắn hạn và sự dịch chuyển vốn, nhân lực về phía ngành đó trong dài hạn và ngược lại để đạt tới cân bằng cung cầu. Ngành Y là một ngành đòi hỏi nhân lực phải được đào tạo rất lâu nên sự đáp ứng lâu dài rất chậm trong khi nhu cầu ngắn hạn lại thay đổi rất nhanh chóng do biến động bệnh dịch, các thảm họa tai nạn. Khi nguồn cung giảm hoặc nhu cầu tăng đột biến như trong các vụ dịch bệnh, tai nạn có thể dẫn đến xu thế tăng giá dịch vụ và điều đó có thể gây tổn thương nhóm dân cư nghèo. Những hành vi chộp giật, lừa đảo sẽ có thể xuất hiện đòi hỏi các chính sách và chế tài quản lý xã hội phải đủ mạnh và hiệu quả.

Nhận diện các mối quan hệ giữa bệnh nhân và thầy thuốc hiện nay
Ở Việt Nam hiện nay, Quan hệ bệnh nhân – thầy thuốc là mối quan hệ hỗn tạp, bao hàm tất cả các mối quan hệ trên. Về mặt đạo đức, người thầy thuốc vẫn muốn đóng vai trò là người cống hiến, tuy nhiên do áp lực của cuộc sống, do nhu cầu kinh tế của gia đình và bản thân nên thầy thuốc phải đóng vai trò là người bán dịch vụ. Việc định giá dịch vụ y tế là điều rất khó khăn vì lao động y tế là lao động phức tạp. Giá trị của lao động y tế kết tinh từ lao động hiện tại là mức độ vất vả, khó khăn trong công việc hàng ngày của thầy thuốc cộng với lao động quá khứ là quá trình học tập, đào tạo và kinh nghiệm của mỗi thầy thuốc. Giá cả dịch vụ y tế là kết quả tương tác giữa giá trị và nhu cầu thị trường. Hiện nay giá cả viện phí do nhà nước quy định. Nó không căn cứ vào thị trường mà lại xuất phát từ ý chí của nhà quản lý trong việc duy trì định hướng xã hội chủ nghĩa và thường so sánh tương quan với các lao động giản đơn khác nên xuất hiện nhiều nghịch lý: Tiền bồi dưỡng bác sĩ mổ nối ruột thấp hơn tiền công thợ sửa xe vá săm xe. Chính vì dịch vụ được bán rẻ dưới giá trị và giá cả nên quan hệ mua bán bị đẩy thành quan hệ xin cho và xuất hiện tình trạng cửa quyền, hách dịch của thầy thuốc và việc hình thành nhóm lợi ích và tệ nạn: Người bệnh có phong bì được ưu tiên hơn người bệnh không có phong bì. Tiền công khám bệnh bị định quá thấp thì bù đắp bằng việc lạm dụng xét nghiệm, lạm dụng thuốc, thậm chí cả tình trạng nhân bản xét nghiệm như ở đâu đó đã xẩy ra.

Về phía người bệnh cũng trong tình trạng mâu thuẫn: Xã hội cũng chưa biết thực sự giá trị của lao động y tế là bao nhiêu và do tàn dư của thời bao cấp nên thường định giá giá trị lao động y tế khá thấp. Người ta có thể chi vài triệu, thậm chí vài chục triệu cho một cái điện thoại đời mới nhưng lại xót xa khi chi vài triệu cho một đơn thuốc của chính mình. Một bà mẹ thương con tha thiết, có thể hài lòng khi trả dăm bảy trăm ngàn tiền công làm tóc cho mình lại thấy hình như tiền công khám bệnh kê đơn cho đứa con yêu bị viêm phổi tới một hai trăm ngàn là quá đắt. Người ta dễ dàng chấp nhận rằng tiền thay thước lái, đèn pha cho một cái ô tô tai nạn thường cao hơn tiền chữa gãy xương chân, dập mặt của ông chủ lái xe.
Người bệnh muốn được làm “thượng đế” nhưng lại không có sẵn dịch vụ có chất lượng do các bệnh viện trung ương quá tải, việc mua “Nụ cười” của nhân viên y tế khá khó khăn vì giá cả dịch vụ y tế nhà nước quy định quá thấp nên bệnh nhân cũng chưa thực sự là “thượng đế” đem lại thu nhập cho họ mà đôi khi trở thành tội nợ nếu quá tải quá nhiều. Chính vì thế những người bệnh có tiền thường chọn giải pháp chạy ra nước ngoài chữa bệnh hoặc sẵn lòng chi trả thêm bằng phong bì để nâng giá cả lên tương xứng với dịch vụ mình mong muốn. Với người bệnh nghèo, không có khả năng chi trả cho dịch vụ tốt thì có tâm lý muốn được làm người bệnh “thụ hưởng” và trông mong thầy thuốc là người “cống hiến” nhưng thầy thuốc bị gánh nặng áo cơm níu kéo nên không thể cống hiến vô điều kiện được. Có sự phân biệt đối xử giữa người có chi trả thêm cho đúng giá (người có phong bì) với những người chi trả thấp theo giá quy định (không phong bì) điều này làm xuất hiện tâm lý thất vọng, thù ghét thầy thuốc trong bệnh nhân và người nhà bệnh nhân.

Nhận diện đúng đắn các mối quan hệ giữa bệnh nhân và thầy thuốc và vai trò của chúng có thể giúp việc điều chỉnh các chính sách, điều chỉnh tâm lý xã hội để đạt tới các quan hệ tốt nhất nhằm phát triển y tế Việt nam. Trong đó quan hệ Cống hiến – Thụ hưởng và quan hệ Mua – Bán là hai quan hệ cơ bản. Quan hệ Cống hiến – Thụ hưởng phải được đảm bảo bằng việc đảm bảo đời sống của nhân viên y tế tương xứng với người cùng trình độ ở các ngành nghề khác. Sử dụng hợp lý các công cụ phi kinh tế như việc tuyên truyền y đức và sự tôn vinh phù hợp của xã hội đối với ngành này. Trong thời gian qua sự kỳ thị của xã hội và các dư luận xã hội tập trung chĩa mũi nhọn vào những vấn đề y tế, dù có vai trò sửa chữa những khiếm khuyết của ngành y tế nhưng đồng thời cũng đã làm xuất hiện tâm lý chán nghề, gây tổn thương sâu sắc đến lý tưởng cống hiến của nhiều thầy thuốc chân chính và có thể tạo ra trào lưu “Săn phù thủy” trong cộng đồng gây nguy hại đối với cán bộ ngành y. Quan hệ Mua – Bán phải được đảm bảo trên cơ sở tôn trọng quy luật thị trường, không áp đặt tư duy duy ý chí. Việc đảm bảo định hướng vì người nghèo phải thông qua các công cụ quản lý, các chính sách xã hội phù hợp và hiệu quả, nguồn lực tài chính hỗ trợ thỏa đáng cho các nhóm người nghèo, người dễ tổn thương tránh được khánh kiệt do chi phí chữa bệnh.

Nguồn https://oldshylion.wordpress.com/2013/08/18/nhan-dien-cac-moi-quan-he-giua-benh-nhan-va-thay-thuoc-hien-nay/

Tương Quan Thầy Thuốc, Bệnh Nhân

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Tuổi dù cao, mà không bệnh hoạn, thì sức khỏe tương đối vẫn còn khả quan.

Tuy nhiên cơ thể về già, cũng như cái máy xe hơi chạy trên trăm ngàn dặm, có những bất thường, chẳng giống ai. Ta mất đi một số khả năng thích ứng với ngoại cảnh và bệnh tật, nên đã đau thì thường trầm trọng hơn và kéo dài lâu hơn. Dấu hiệu bệnh không giống như ở người trẻ. Chẳng hạn khi sưng phổi thì ta hay than phiền mệt mỏi, yếu sức toàn thân, rối loạn tâm thần, còn người trẻ thì có triệu chứng rõ ràng như ho, nóng sốt.

Phản ứng của ta với bệnh tật cũng khác. Nhiều người có bệnh mà không nói ra vì tính tình chịu đựng, đôi khi nghĩ là dù có khai với bác sĩ, ông ta lại bảo tại già nó vậy, hoặc e ngại bác sĩ sẽ thực hiện nhiều thử nghiệm, lấy máu, phiền phức, đau đớn.

Một số người cao tuổi có nhiều bệnh, uống nhiều thuốc khác nhau do nhiều bác sĩ cho toa. Họ cũng thường đi khám bác sĩ nhiều hơn người ở các tuổi khác. Những phức tạp, khác với bình thường đó đặt ra vấn đề tương quan giữa thầy thuốc và bệnh nhân, sao cho đôi bên đều thỏa mãn trong tình nghĩa phúc chủ, lộc thầy.

Sự đào tạo bác sĩ

Với bệnh nhân, thầy thuốc là người sẽ định bệnh, làm giảm sự đau đớn, cho biết diễn tiến bệnh, phục hồi khả năng đã mất, và phương cách ngừa bệnh tái phát. Người bệnh, khi đã lựa được thầy thuốc thích hợp, thì đặt mọi tin tưởng vào thầy thuốc, và mối tương quan sẽ tốt đẹp. Để lựa một lương y, ta cần biết về thành tích chuyên môn cũng như đức độ của họ.

Ngày nay, bác sĩ đều được đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế với 4 năm dự bị, 4 năm y khoa rồi từ 3 tới 5 năm chuyên khoa để được coi như tinh thông y nghiệp.

Người bác sĩ đầu tiên mà ta tiếp xúc mỗi khi đau ốm là thầy thuốc riêng của mỗi gia đình. Vị này có thể là chuyên ngành y khoa gia đình, nội khoa, nhi khoa, phụ khoa hay giải phẫu tổng quát. Họ đươc huấn luyện để khám và trị căn bản, rồi sau đó nếu cần sẽ gửi đi chuyên khoa riêng biệt. Họ còn giúp ta phòng ngừa bệnh tật, như chích ngừa, làm thử nghiệm tìm ung thư tử cung, nhiếp hộ tuyến, thử máu kiểm soát lượng cholesterol, đường trong máu. Những tiểu giải phẫu như khâu vết thương, mổ một mụn nhọt cũng được họ thực hiện ngay tại phòng mạch. Họ cũng chữa các bệnh thông thường về ngũ quan.

Với kiến thức tổng quát rộng, họ sẽ là người phối hợp việc trị bệnh của ta với các bác sĩ chuyên khoa từng bộ phận, giải quyết những ý kiến khác nhau về cách điều trị. Thường thường, họ rất dè dặt, cẩn thận trong việc trị bệnh.

Các bác sĩ chuyên môn riêng biệt đều được huấn luyện thêm vài năm về bệnh của một bộ phận cơ thể. Có bác sĩ chuyên về ngoài da, dị ứng, đường ruột, tim mạch, tiết niệu, xương khớp… Họ thường phải qua một kỳ thi để được chính thức công nhận và giới thiệu tước vị chuyên môn.

Ngoài kiến thức rộng, cập nhật hóa về bệnh, họ còn sử dụng các kỹ thuật khám phá, truy tầm nguyên nhân bệnh tân kỳ hơn, cần khéo tay, kinh nghiệm hơn, như kỹ thuật thông tim, cắt một nhúm tế bào ở thận, ở phổi, ở gan, nhìn vào ống phổi, ruột non, ruột già, hay khâu vết thương nhỏ trên võng mạc. Ta cần các bác sĩ này khi có một bệnh hiếm hay biến chứng mà bác sĩ gia đình ngần ngại giải quyết, hoặc sau thời gian điều trị, bệnh không thuyên giảm, hoặc ta cần những thử nghiệm ngoài phạm vi của bác sĩ gia đình.

Chúng ta đừng e dè khi gợi ý xin tham khảo chuyên môn vì bác sĩ gia đình thường rất vui vẻ giới thiệu, hơn nữa họ cũng không muốn bị liên lụy pháp lý nếu có chuyện gì xảy ra cho người bệnh.

Từ vài thập niên vừa qua, đã có một số bác sĩ chuyên về lão khoa, hoặc qua vài năm huấn luyện chính thức, hoặc do kinh nghiệm điều trị người già. Số bác sĩ này vẫn còn rất ít, nên thường được sử dụng trong việc săn sóc người cao niên yếu đuối với một nhóm chuyên viên về lão bệnh như người làm công tác xã hội, y tá, dinh dưỡng viên, chuyên viên phục hồi, dược sĩ…để đánh giá khả năng sinh hoạt, tình trạng sức khỏe của người già yếu đuối, đề nghị một chương trình săn sóc, điều trị hầu mang lại một số chức năng cho quý vị này.

Lựa chọn bác sĩ

Nói đến đức độ, thì người ta lại nghĩ đến câu “lương y như từ mẫu”. Người mẹ hiền đức ngọt ngào, nhẹ nhàng với con, nhưng không quá nuông chiều, hiểu con, sẵn sàng cho con, chỉ dậy cho con từ đường đi nước bước, sao cho con trở nên người. Một lương y cũng cần có một vài đức tính của người mẹ hiền, vì khi đau ốm, ta trở nên bất lực và phụ thuộc, như đứa trẻ thơ.

1- Kinh nghiệm.

Kinh nghiệm thâu lượm qua sự việc đã gặp, đã làm. Một bác sĩ tốt gặp trường hợp bệnh mới, phải tham khảo sách báo, đồng nghiệp, suy nghĩ kỹ càng trước khi định bệnh, rồi ra đơn thuốc. Gặp bệnh đó vài lần, trở thành có kinh nghiệm, lần sau thấy là chẩn đoán, điều trị tức thì. Cũng như một bác sĩ giải phẫu giàu kinh nghiệm, một mình trên bàn mổ, có thể thay đổi chiêu thức đường dao để hoàn thành trường hợp mổ khó khăn.

Tuổi tác không phải là bảo chứng của kinh nghiệm, vì người thầy thuốc gìa vẫn có thể phạm cùng một lỗi lầm nhiều lần. Vì thế, khi có bệnh khó, ta nên đến bác sĩ được biết có kinh nghiệm về bệnh đó, ta sẽ được săn sóc đúng thầy đúng thuốc.

2- Danh tiếng.

Nổi tiếng có thể hoặc xấu hoặc tốt. Nổi danh về y nghiệp, về y đạo, về giao tế nhân sự. Nổi danh do nhận xét của bệnh nhân, của đồng nghiệp, của nhân viên hợp tác.

Có những nhận xét công bằng, thì lại cũng có nhận xét thiên lệch, vì những lý do khác nhau. Nhưng nhận xét nào được nhiều người nhắc đi nhắc lại thì chắc là đáng tin cậy hơn.

3- Sẵn sàng phục vụ.

Bệnh đến bất thường, kêu bác sĩ gia đình, chỉ thấy tiếng máy trả lời bác sĩ đi nghỉ hè, xin liên lạc với bác sĩ trực phòng cấp cứu nhà thương, thì thực là quá thất vọng.

Bác sĩ đông khách, muốn xin hẹn phải đợi cả tháng, thì cũng rất bất tiện. Đâu còn cứu bệnh như cứu hỏa.

Thành ra, khi lựa các bác sĩ, nên hỏi rõ vài chi tiết như: chẳng may đau ban đêm, tôi sẽ phải liên lạc với ai; bác sĩ nào trong nhóm sẽ trực khi có khẩn cấp; khi nhập viện, bác sĩ có vào khám bệnh tôi mỗi ngày; khi cần khám giữa kỳ hẹn, tôi có được gặp bác sĩ hay người khác.

Thường thường một nhóm nhỏ bác sĩ hợp tác với nhau, họ thay phiên trực thì ta dễ có cơ hội gặp bác sĩ gia đình hay bác sĩ quen khi có khẩn cấp, nhờ đó nhu cầu trị bệnh được thỏa mãn dễ dàng.

4- Tác phong.

Như một từ mẫu, bác sĩ thường được bệnh nhân hy vọng là sẽ đối xử với mình chu đáo, hiều biết, chịu đựng. Thầy thuốc tốt sẵn sàng dành thêm chút thì giờ giải thích rõ bệnh trạng, diễn tiến, biến chứng, phương cách trị liệu, đề phòng tái phát bằng ngôn ngữ dễ hiểu. Bệnh nhân sẽ thỏa mãn hơn nếu được bác sĩ yêu cầu góp ý kiến vào việc trị bệnh.

Bác sĩ cũng đối xử không quá nghiêm khắc, lạnh nhạt, kiêu kỳ, coi nhẹ nhân vị bệnh nhân. Khi bệnh nhân không vui lòng với thầy thuốc thì họ đi kiếm bác sĩ khác, đổi bảo hiểm, lơ là với chỉ dẫn của bác sĩ. Nhiều lúc bệnh nhân già ta cũng dễ dàng chấp nhận sự bẳn tính của ngời thầy thuốc cao tuổi nhưng tận tâm và có khả năng.

Bổn phận bệnh nhân

Đã có những đòi hỏi của bệnh nhân với thầy thuốc, thì ngược lại thầy thuốc cũng có vài yêu cầu mà ta cần đáp ứng, vì sau khi đã lựa chọn được vị bác sĩ vừa ý, ta đã trở nên thân chủ của họ. Là người bệnh, người hưởng thụ chăm sóc y tế, ta có những trách nhiệm phải thực hiện để việc đi khám bác sĩ mang lại kết quả tốt đẹp.

1.Đã có hẹn, thì giữ hẹn, tới sớm một chút để có thì giờ ngồi nghỉ, coi lại những điều cần khai với bác sĩ. Nếu không giữ được hẹn, nên thông báo trước 24 giờ để bệnh nhân khác có thể được thay thế vào hẹn của mình.

2.Viết sẵn chi tiết bệnh với triệu chứng, tập trung vào điểm chính yếu, những thắc mắc muốn hỏi. Nếu có thể, ghi những bệnh quan trọng mà người thân trong gia đình đã, đang có.

3.Mang tất cả các dược phẩm đang uống để bác sĩ coi, tránh trường hợp cho thuốc giống nhau. Có thân nhân đi cùng cũng tốt vì người này nhắc ta câu hỏi bị quên, hay nhắc lại cho ta lời chỉ dẫn của bác sĩ.

4.Trình bày chính xác, rõ ràng về bệnh trạng của mình. Thí dụ đau, thì đau ở đâu, từ bao giờ, đau như thế nào, làm gì để bớt đau.

Đặt câu hỏi cho tới khi hiều rõ bệnh trạng, cũng như trả lời câu hỏi đầy đủ.

Yêu cầu bác sĩ giải thích theo ngôn từ bình dân, dễ hiểu, dễ nhớ.

Sự hài lòng với săn sóc y tế tùy thuộc phần lớn vào hiệu quả sự thông cảm, đối thoại giữa thầy thuốc và bệnh nhân.

5.Về nhà, dùng thuốc, ăn uống, nghỉ ngơi đúng theo chỉ dẫn. Liên lạc với bác sĩ ngay khi có triệu chứng bất thường hoặc có tác dụng không muốn của dược phẩm.

6.Giữ đúng hẹn để được theo dõi kết quả việc trị liệu.

Trên đây là tương quan điều trị khoa học, giữa người có bệnh với người làm bớt bệnh.

Gần đây, khía cạnh tôn giáo trong tương quan này đã được nêu lên. Một cuộc nghiên cứu phối hợp của nhiều trung tâm y học có uy tín ở Mỹ đã đi đến kết luận là: tôn giáo có nhiều tác dụng tích cực vào sức khỏe của người cao tuổi, nhất là về sức khỏe tâm thần; và thầy thuôc nên thảo luận về tôn giáo với bệnh nhân, đôi khi cùng cầu nguyện, khi được yêu cầu.

Người cao tuổi thường tin tưởng vào tôn giáo hay đi lễ. Có người cho thân xác của mình là của Thượng đế, mọi lạm dụng (như ghiền rượu, thuốc), hoặc lơ là chăm sóc là ngược lại với giáo lý, đức tin, cho nên đi trị bệnh là làm bổn phận đối với Thượng Đế. Cũng có người quá tin lại nghĩ bệnh là do sự trừng phạt của Thượng Đế vì những tôi lỗi đã phạm, nên chịu đựng sự trừng phạt mà không đi chữa trị, hoặc chờ khi được tha thứ thì hết bệnh.

Vì tính cách quan trọng của tôn giáo với người cao tuổi, nên đã có đề nghị trong chương trình đào tạo bác sĩ bao gồm phần nói đến ảnh hưởng đó trong việc trị liệu,và nhấn mạnh tới tương quan giữa tôn giáo và sức khỏe.

Mối tương quan thầy thuốc và bệnh nhân ở các quốc gia kỹ nghệ cao ngày nay chịu nhiều chi phối bởi các nhóm tài phiệt, thương mại. Thầy thuốc bị giới hạn trong việc trị bệnh, người bệnh bị hạn chế quyền được chăm sóc y tế. Lương y trở thành người cung cấp dịch vụ, thân chủ là giới thụ hưởng. Mối giao hảo trở nên lỏng lẻo, sòng phẳng, đôi khi căng thẳng vì nếu có sơ hở là đôi bên đáo tụng đình, làm giàu cho nhóm người nhiều mưu mẹo pháp lý.

Nhưng, để sinh tồn, đôi bên vẫn phải giữ giao hảo tốt đẹp với nhau, để một bên hưởng lợi nhuận kinh tế, một bên có sức khỏe bình an.

Ngõ hầu cùng mong được an hưởng tuổi vàng.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức