Những Trường Hợp Trục Xuất Các Tu Sĩ

NHỮNG THẮC MẮC VỀ GIÁO LUẬT ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN

CÁC DÒNG TU

(Điều 607 - 709)

VẤN ĐỀ 105

Những Trường Hợp Trục Xuất Các Tu Sĩ

Các lý do (đ. 696)

Đó phải là những sự kiện nghiêm trọng, xuất hiện ra bên ngoài (nhiều ngưòi đã biết hoặc có thể biết), có thể quy trách cho tu sĩ (nghĩa là tu sĩ có trách nhiệm luân lý) và có thể chứng minh theo pháp luật, thí dụ như: thường xuyên chểnh mảng các nghĩa vụ của đời sống thánh hiến; nhiều lần lỗi các lời khấn; ngoan cố bất tuân phục các chỉ thị hợp pháp của Bề trên trong các vấn đề can hệ; gây gưong xấu phát sinh từ tác phong có lỗi của đương sự; cố tình chủ trương hoặc phổ biến các đạo lý đã bị Huấn quyền Giáo Hội lên án; công khai tán trợ các ý thức hệ duy vật hoặc vô thần; vắng mặt bất hợp pháp trong vòng sáu tháng không trở về nhà Dòng, với ý định trốn tránh quyền bính các Bề trên (x. đ. 665 § 2). Luật riêng có thể dự trù các lý do trầm trọng khác tương tự. Để trục xuất một tu sĩ khấn tạm, luật riêng có thể xác định những lý do khác ít nghiêm trọng hơn.

Tiến hành thủ tục (đ. 697)

Trong các trường hợp vừa nói, Bề trên Cao Cấp:

a/. Sau khi đã lấy ý kiến của Hội Đồng Cố Vấn, sẽ quyết định có nên tiến hành thủ tục trục xuất không.

b/. Thu thập (hoặc bổ sung) các chứng cớ về sự kiện tội phạm cũng như về sự quy trách của tu sĩ.

c/. Cảnh cáo đương sự lần thứ nhất, - hoặc trước mặt hai nhân chứng, hoặc gửi thư bảo đảm có ký nhận-, về việc sẽ bị trục xuất nếu đương sự không sửa mình. Cần phải thông tri rõ ràng lý do việc trục xuất, và để cho đương sự khả năng trả lời để tự bào chữa.

d/. Nếu việc cảnh cáo này không mang lại kết quả, thì ít là mười lăm ngày sau đó Bề trên sẽ gửi cho đương sự một lời cảnh cáo thứ hai, cũng với hình thức và nội dung giống lần trước.

e/. Nếu lời cảnh cáo thứ hai vẫn không có hiệu quả, Bề trên sẽ lại triệu tập Hội Đồng Cố Vấn, và nếu nhận thấy rõ ràng sự bất trị của đương sự, và các lời giải thích của đương sự tỏ ra không đầy đủ, thì tất cả tập hồ sơ gồm:

- Các cáo trạng và các giấy tờ chứng minh, có chữ ký của Bề trên Cao Cấp và của chưởng khế (hoặc thư ký của ngài),

- Các câu trả lời của đương sự và có chữ ký của đương sự.

Tất cả sẽ được gửi lên Bề trên Tổng Quyền (hoặc Đức Giám Mục có thẩm quyền).

Cũng tương tự như trường hợp trục xuất bắt buộc, đương sự luôn luôn có quyền tiếp xúc trực tiếp với bề trên tổng quyền hoặc với Giám mục có thẩm quyền, để tự bào chữa. 

NHỮNG THẮC MẮC VỀ GIÁO LUẬT ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN

CÁC DÒNG TU

(Điều 607 - 709)

VẤN ĐỀ 102

VIỆC TRỤC XUẤT CÁC TU SĨ

VẤN ĐỀ LỊCH SỬ

 Trước khi Bộ Giáo Luật 1917, nếu một tu sĩ khấn trọng tỏ ra bất trị trong vòng sáu tháng cảnh cáo, đương sự có thể bị trục xuất khỏi Dòng sau một thủ tục tố tụng tư pháp, với những bằng chứng giáo luật để trục xuất. Các nữ đan sĩ chỉ có thể bị trục xuất nếu được Tòa Thánh cho phép. Các tu sĩ bị trục xuất đương nhiên được miễn chuẩn các lời khấn.

Trong các Hội Dòng (với lời khấn đơn) các điều kiện trục xuất khác biệt tùy theo tu sĩ là giáo sĩ hay giáo dân, khấn vĩnh viễn hay khấn tạm. Đối với một tu sĩ khấn tạm thì không cần đến thủ tục tư pháp; nhưng nếu là một tu sĩ giáo sĩ hoặc một tu sĩ đã khấn trọn đời thì nói chung cần phải tuân theo một thủ tục xét xử (trừ khi có sự miễn chuẩn của Tòa Thánh).

Việc trục xuất chỉ có hiệu lực sau khi được sự xác nhận của Tòa Thánh. Tu sĩ bị trục xuất vẫn phải giữ các lời khấn, trừ khi nào Hội Dòng của đương sự được hưởng một “đặc ân” trong lãnh vực này.

Kỷ luật này được đưa vào Bộ Giáo Luật 1917 và được duy trì cho tới sắc lệnh ngày 02/03/1974. Văn kiện này bãi bỏ thủ tục tư pháp trong việc trục xuất các tu sĩ đã khấn trọn đời trong các Dòng giáo sĩ miễn trừ, và thay thế bằng một thủ tục hành chánh đã được sử dụng cho các tu sĩ khấn trọn đời trong các Dòng khác, mà vẫn bảo đảm được các đòi hỏi của đức công bằng.

NHỮNG THẮC MẮC VỀ GIÁO LUẬT ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN

***

CÁC DÒNG TU

(Điều 607 - 709)

***

VẤN ĐỀ 106

NGHỊ ĐỊNH VỀ VIỆC TRỤC XUẤT CÁC TU SĨ

(đ. 699 - 700) 

Nhà chức trách có thẩm quyền để ban hành nghị định trục xuất

1/. Trong một Hội Dòng (thuộc quyền Giáo hoàng hay Giáo phận): Bề trên Tổng Quyền và Hội Đồng Cố Vấn.

2/. Trong một đan viện tự trị (nghĩa là không có bề trên cao cấp nào khác ngoài bề trên của đan viện, hoặc không liên kết với một Dòng nào khác để cho Bề trên Dòng ấy có một quyền hành thật sự đối với đan viện, theo quy định của hiến pháp): Đức Giám Mục Giáo phận.

a/. Trong các Hội Dòng, Bề trên Tổng Quyền sẽ triệu tập Hội Đồng Cố Vấn (gồm ít nhất bốn vị). Các ngài sẽ cứu xét cách tập đoàn những chứng cớ của cáo trạng cũng như những lời biện hộ của bị cáo. Họ sẽ bỏ phiếu kín có nên trục xuất hay không. Nếu đa số chấp nhận có cơ sở cho việc trục xuất, thì Bề trên sẽ ra nghị định trục xuất, trong đó phải trình bày những lý do về pháp luật và về sự kiện (nếu không thì nghị định sẽ vô hiệu). Sắc lệnh cần phải dành cho đương sự quyền được thượng cầu lên cấp trên (Bộ Đời Sống Thánh Hiến), trong vòng 10 ngày kể từ khi được thông tri.

b/. Trong các đan viện tự trị, thẩm quyền ban hành nghị định trục xuất thuộc về Giám mục Giáo phận. Nghị định cũng phải nêu rõ các lý do, và cho phép thượng cầu.

Sự phê chuẩn nghị định (đ. 700)

1/. Nghị định chỉ có hiệu lực sau khi được phê chuẩn bởi:

a/. Bộ Đời Sống Thánh Hiến, nếu là Dòng Tòa Thánh (và đan viện biệt lập về pháp lý).

b/. Đức Giám Mục của tu viện nơi tu sĩ đó được bổ nhiệm, nếu là Dòng Giáo phận.

2/. Vì vậy nhà chức trách đã ký nghị định (Bề trên Tổng Quyền hoặc Giám mục Giáo phận) phải chuyển đạt nghị định cùng với toàn bộ hồ sơ lên cơ quan có thẩm quyền để duyệt lại và phê chuẩn nghị định.

Thông tri nghị định và thượng cầu (đ. 700)

Sau khi được phê chuẩn, nghị định phải được thông tri cho đương sự bằng thư bảo đảm có ký nhận, hoặc bằng miệng trước mặt hai nhân chứng.

Trong vòng mười ngày từ khi được thông tri, đương sự có quyền thượng cầu lên Bộ Đời Sống Thánh Hiến (kể cả trong trường hợp Bộ đã phê chuẩn nghị định của Bề trên Tổng Quyền hoặc của Giám mục). Để được như vậy, đương sự phải tuyên bố ý định thượng cầu qua một thư gửi cho Bề trên Tổng Quyền hoặc cho Giám mục, tùy theo trường hợp (đ. 1737 §l). Nếu có thượng cầu, hiệu lực của nghị định sẽ bị đình chỉ. Nếu không có thượng cầu, sau mười ngày, tu sĩ bị coi như bị trục xuất. 

Nguồn:http://catechesis.net/index.php/giao-luat/giai-thich-giao-luat-doi-song-thanh-hien